Tác
giả là một nhà giáo, định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1991, cư dân
Westminster, California. Viết Về Nước Mỹ 2014, cô nhận giải danh dự.
Sang năm 2015, với bài "Giọt Máu Rơi của Người Lính Chết Trẻ", cô nhận
thêm giải "Vinh Danh Tác Phẩm." Cho đến nay, tác giả ngày càng cho thấy
một sức viết ngày càng mạnh mẽ hơn. Sau đây là bài viết mới nhất, nhân
mùa lễ Memorial Day tại Hoa Kỳ.
* * *
1. Anh không chết đâu anh
Vào
đầu năm một chín bảy mươi mốt, đài truyền hình thành phố Sài gòn phát
hình nhạc cảnh nhạc sĩ Nhật Trường trong vai đại úy Nguyễn Văn Đương,
mặc quần áo lính, trên đầu vết đạn còn rướm máu. Anh hiện về trong giấc
ngủ chập chờn của người vợ ở hậu phương, chị Nguyễn Thị Lệ. Ca sĩ Thanh
Lan đóng vai chị Lệ.
Từ
khung cửa, bóng ma Nguyễn văn Đương hiện về báo mộng "…Anh không chết
đâu em, anh chỉ về với mẹ mong con"… "…Không, anh không chết đâu em, anh
chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua…". Đại úy Nguyễn Văn Đương đã tự sát bằng viên
đạn bắn vào đầu vì không muốn rơi vào tay kẻ thù. Phát súng "lẻ loi",
"nhiệm mầu" và "sau cùng" đã làm nên bài hát đi vào lịch sử âm nhạc thời
chiến tranh "Anh Không Chết Đâu Anh".
Bài
hát đã lấy đi nhiều giọt nước mắt của những bà mẹ, người vợ, người yêu
có người thương là lính đang chiến đấu ngoài mặt trận. Sự thành công về
diễn xuất và tiếng hát truyền cảm của hai ca sĩ nổi tiếng trong nhạc
cảnh khiến họ trở thành một cặp đôi lý tưởng hát nhạc lính. Sau đó, ca
sĩ kiêm đạo diễn Nhật Trường dựa vào nhạc cảnh này cho ra đời cuốn phim
"Trên Đỉnh Mùa Đông" vào năm một chín bảy hai.
Ai
cũng biết ca sĩ Nhật Trường xuất thân từ lính. Ông yêu lính, yêu đời
lính, gần gũi, đồng cảm với tâm tình và đời sống của người lính. Hầu hết
những tác phẩm của ông sáng tác đều có mặt hình ảnh người lính trong
các binh chủng Nhảy Dù, Không Quân, Hải Quân…
Tôi
gặp ca sĩ Nhật Trường trong một dịp tình cờ. Ba má tôi có một cửa hàng
bán đàn ở đường Hồ Văn Ngà. Do một người bạn giới thiệu, Nhật Trường đến
nhà tôi mua đàn.
Bản
nhạc "Anh Không Chết Đâu Anh" của Nhật Trường là bản nhạc trong đó hình
ảnh người lính trong tim "cô sinh viên hay buồn" và "những giọt nước
mắt ướt trên sân trường đại học" rất gần với tâm trạng và hoàn cảnh của
tôi lúc bấy giờ.
Câu
chuyện bắt đầu bằng cuộc gặp gỡ của "đôi trẻ" do người lớn sắp đặt.
Ngày đó gia đình hai bác Đông An rất muốn làm thộng gia với ba má tôi.
Các cụ thân nhau từ miền Bắc, cùng rủ nhau di cư vào Nam lập nghiệp. Hai
gia đình thân đến nỗi hứa hẹn phải gả, cưới con cái cho nhau khi con
cái lớn lên. Không làm rể thì làm dâu. Hai bác có ba người con, anh Trần
Đình Thu là con trai út.
Tên
anh chàng nghe như tên con gái. Nhìn tướng tá cao ráo, ăn mặc bảnh bao,
nói chuyện hoạt bát, khá đẹp trai và là trung úy phi công, tôi nghĩ anh
chàng " vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa" này chắc có nhiều cô mê
và chàng tán gái thì khỏi... chê. Vào thời đó, các cô gái Sài gòn đa số
có người yêu là lính. Hình ảnh đẹp, hào hùng và lý tưởng nhất trong tâm
tưởng các cô trong đó có tôi là hình ảnh các chàng phi công trong binh
chủng Không Quân " …Khi gió quay cuồng sau cánh bay, con tàu thét gầm
cho tim ngất ngây, phi đạo chạy dài anh cất cánh bay lên…"
Anh
về phép, đến nhà tôi chơi hai lần. Hai đứa ngồi trong phòng khách nói
chuyện bâng quơ. Anh kể về đời phi công, chiến tranh, những năm tháng tu
nghiệp bên Mỹ. Tôi kể về chuyện học hành, chữ nghĩa và ước mơ làm cô
giáo. Chuyến về phép sắp tới chưa kịp gặp thì được tin anh tử trận. Cũng
may hai đứa chỉ là tình bạn sơ giao chưa có lời hứa hẹn hay một cuộc
hẹn hò nào. Hôm tôi đến viếng đám ma anh, bác Đông An gái ôm tôi khóc
nức nở. Nhìn chiếc quan tài màu vàng và tấm hình anh trong bộ quân phục
phi công, tôi không cầm được nước mắt. Anh chết quá trẻ.
Sau
cái chết của anh Thu, tôi vẫn là cô sinh viên Văn Khoa chăm chỉ, ngày
ngày vùi đầu trong sách vở nhưng cái chết của anh và hình ảnh những
người lính trong các bản nhạc của nhạc sĩ Nhật Trường đã khiến tôi quan
tâm nhiều đến các tin tức thời sự, các trận đánh lớn và cuộc chiến tranh
càng ngày càng khốc liệt. Tôi thường nghêu ngao những bài hát về lính
của nhạc sĩ Nhật Trường như " Hoa Biển", "Tuyết Trắng", "Tình Thư Của
Lính", "Khi Người Yêu Tôi Khóc", "Trên Đỉnh Mùa Đông", "Anh Không Chết
Đâu Anh"…
Buổi
chiều hôm ấy đang ngồi vật lộn với mớ chữ Hán của Thầy Nghiêm Toản,
nhìn ra ngoài đường tôi thấy một anh lính dáng gầy, đeo cặp kính trắng,
mặc bộ "treillis" rằn ri từ trên xe Jeep bước xuống. Anh đi thẳng vào
nhà, nhìn những cây đàn trong tủ kính, quan sát, ngắm nghía một hồi và
muốn được thử tiếng đàn.
Gặp "thần tượng" bất ngờ, giọng tôi như lạc đi. Tôi nói nhỏ với Má tôi đứng bên cạnh:
-
Má. Má ơi, ca sĩ Nhật Trường đó Má. Ông này nổi tiếng hát hay, đóng
phim, làm nhạc. Má bán rẻ rẻ, bớt chút đỉnh cho ổng vui nha Má.
Bà
đến gần chào khách rồi kéo tủ kiếng lấy vài cây đàn anh chọn đưa cho
anh thử. Anh chỉnh giây, dạo vài nốt nhạc và khen tiếng đàn hay.Thật là
một cơ hội hiếm có để làm quen với người nhạc sĩ nổi tiếng như Nhật
Trường. Còn gì hân hạnh cho bằng được người nhạc sĩ đến tiệm mình mua
đàn. Vậy mà Má tôi tiếp anh như một người khách hàng bình thường.
Anh nhìn tôi với đôi mắt có vẻ tò mò khi thấy đống sách vở trên bàn và quay sang hỏi Má tôi:
- Bác ơi, cây này bao nhiêu tiền hả Bác?
- Xin cậu cho hai ngàn.
- Hai ngàn? Bác không bớt sao? Nếu cháu nói cháu là ai, Bác sẽ bớt cháu liền.
- Xin lỗi cậu, tôi không biết cậu là ai. Cậu trông quen quen.
Chàng nhạc sĩ cười thành tiếng:
- Thế bác có bao giờ nghe nhắc tên ca sĩ Nhật Trường chưa?
Lần này Má tôi cười lớn rồi gật gù:
- Hình như tôi có nghe cái tên này.
- Thế Bác có hay xem Ti- vi không? Cháu là ca sĩ Nhật Trường đây. Bác có giá đặc biệt cho cháu đấy nhé.
Ca
sĩ Nhật Trường rất tự nhiên. Để chứng tỏ cho Má tôi, một bà già nhà quê
không biết trước mặt bà là một anh chàng ca sĩ thứ thiệt, anh dạo đàn,
vừa đệm đàn vừa hát rất tình tứ: "Nếu em không là người yêu của lính. Em
sẽ nhớ ai chủ nhật trời trong. Em sẽ nhớ ai đêm xuân lạnh lùng. Và giữa
chốn muôn trùng. Ai viết tên em lên tay súng"…"
Lúc
đó tôi đang "ngất ngây" vì giọng ca trầm ấm và truyền cảm của "thần
tượng" đang ngồi hát trước mặt mình. Không tự chủ được, tôi buột miệng:
-
Dạ em biết. Bài này tựa là "Người Yêu Của Lính" của nhạc sĩ Nhật
Trường. Lúc anh mới bước vào tiệm, em nhận ra anh là nhạc sĩ Nhật Trường
liền.
Nhật Trường khoái trá, cười ha hả vì được "fan" ái mộ:
-
Vậy là em biết nhiều về nhạc của anh lắm phải không? Đúng rồi. Bài này
là bài "Người Yêu Của Lính". Làm người yêu của lính phải hy sinh nhiều
lắm em ơi!
Rồi chàng quay sang cười với Má tôi:
- Thế là Bác phải bớt cho cháu đấy nhé. Nhạc sĩ …nghèo lắm bác ạ !
Vẫn
là thái độ tiếp khách lịch sự, giọng nói dịu dàng nhưng sao Má tôi vẫn
tỏ ra lạnh nhạt trước người nhạc sĩ nhanh nhẩu, vui tính:
-
Cậu thông cảm cho. Tiệm chúng tôi bán đúng giá cậu ạ. Tôi không bớt vì
tôi không nói thách. Cậu đã thử tiếng đàn hay và biết giá trị của cây
đàn. Cậu mua dùm, tôi rất cám ơn. Thôi, để biếu cậu một bộ giây đàn và
vài miếng khảy đàn nhé.Còn bớt thì không bớt được cậu ạ.
Thôi
rồi. Ông Nhật Trường này …xui, ra ngõ gặp… "bà già giết giặc". Mọi lần
Má tôi tiếp khách vui vẻ, hoạt bát và "mặn" chuyện lắm. Bà hay bớt chút
đỉnh tiền để khách mua đàn về xe xích lô. Bữa nay sao Má tôi đối xử kỳ
cục quá với khách hàng nhất là người khách này là người khách đặc biệt.
Má tôi có thành kiến gì với anh? Hay tại câu hỏi "…biết cháu là ai" làm
bà già bị…sốc? Hay Má tôi không thích làm quen với người nổi tiếng?
Sợ anh buồn, tôi bèn xía vào, vớt vát vài câu trước khi "thần tượng" trả tiền:
-
Dạ, em biết nhiều về nhạc của anh lắm nhưng em không thuộc trọn bài
nào. Má em bán đàn ở đây quen biết nhiều và rất quý các nhạc sĩ. Đây là
lần đầu tiên gặp anh nên Má em không nhận ra nhạc sĩ Nhật Trường, chỉ
thấy anh trông quen quen trên ti- vi thôi. Anh đã biết tiệm rồi, lần sau
anh trở lại mua đàn sẽ bớt anh nhiều hơn.
Vậy
mà Nhật Trường vẫn vui vẻ mua cây đàn mặc dù Má tôi không bớt một xu.
Người tài xế cầm cây đàn ra xe. Nhật Trường chào má tôi thì bà đã vào
trong nhà. Anh quay lại tìm cái nón bỏ quên và nhìn tôi cười cười:
- Má em coi bộ …khó. Coi chừng…ế chồng nha em.
Không có Má, tôi được dịp tuôn ra một tràng "tâm sự":
- Dạ, chắc không…ế đâu anh. Em thích nhạc lính của anh vì em có bồ lính. Em là "Người Yêu Của Lính".
Nhật Trường mở to mắt, cười tươi hẳn nét mặt:
- Vậy hả? Vui quá há? Bồ em thuộc binh chủng nào?
Lúc đó tôi liên tưởng đến hình ảnh anh Trần Đình Thu:
- Dạ…dạ..binh chủng… Không Quân.
- Vậy là em phải biết bài "Tuyết Trắng". Anh sáng tác bài này riêng tặng cho binh chủng Không Quân.
Rồi
anh hát tự nhiên, dễ dàng, không cần nhạc đệm. Chung quanh như chỉ có
anh và những lời nhạc trữ tình: "…Vượt cao vút cao, mây trời kết thành
một vùng tuyết trắng ngần. Tuyết ơi xin nhuộm trắng trong tâm hồn em gái
nhỏ tôi thương… …"Anh ước sao tình như tuyết giăng, cho dù chúng mình
không gian cách ngăn, cho dù tuyết trắng đã chìm trong màn đêm".
Tôi ngơ ngẩn đứng nhìn anh trong một "live show" ngắn ngủi và bất ngờ.
Thế rồi anh quay đi, vẫy tay:
Thôi chào em nhé. Cho anh gửi ít …tuyết tặng anh bồ Không Quân của em.
Chiều
xuống. Xe lăn bánh. Tôi vẫn còn đứng dõi theo chiếc xe Jeep đã khuất
bóng. Sao không xin chữ ký của anh để làm kỷ niệm cuộc gặp gỡ thú vị mặc
dù có… "lính canh" là Má tôi đứng bên cạnh. May còn vớt vát được câu
chuyện… nổ tới bến về ông bồ Không Quân. Lòng còn ấm ức vì Má tôi không
bớt đồng xu teng nào cho chàng nhạc sĩ "nghèo".
Sau này tôi có dịp hỏi Má về câu chuyện cũ, Má tôi cười ngất:
-
Con ơi, Má biết Nhật Trường lắm chứ sao không. Nhạc của anh rất tình
cảm, thường viết về lính. Anh hát hay nữa. Má thích nhất cảnh anh đóng
vai Nguyễn Văn Đương với cô Thanh Lan. Anh tài hoa và đào hoa lắm. Má
chỉ không ưa cái tật đào hoa của cậu ta.
Trời
đất ơi! Chỉ vì cái tật đào hoa của người nghệ sĩ mà Má tôi phớt lờ,
không thèm nhận ra ca sĩ Nhật Trường, không niềm nở với người khách hàng
rất dễ thương và không bớt "thần tượng"của tôi một xu nào. Tôi biết Má
tôi thích nhạc lính và tiếng hát của Nhật Trường. Còn đời tư, Má tôi
biết gì về đời tư của Nhật Trường? Má tôi chỉ biết Nhật Trường đào hoa
qua mấy tin đồn và mấy tờ báo lá cải.
*
Những
kỷ niệm về nhạc sĩ Nhật Trường thời còn là cô sinh viên Văn Khoa, hình
ảnh người nhạc sĩ đóng vai đại úy Nguyễn Văn Đương và chị Nguyễn thị Lệ
trên sân khấu đã theo tôi vượt đại dương suốt một chuyến bay dài. Tôi đã
gặp người góa phụ bằng xương bằng thịt trong căn nhà nhỏ ở một khu xóm
lao động trên con đường Nguyễn Chí Thanh nối dài thuộc quận mười một.
Tìm
được căn nhà nhỏ trên con đường này sau đổi đời, với kẻ từ xa về như
tôi, là chuyện phải "tra cứu" lỉnh kỉnh. Trước 1975, đây là đường Trần
Hoàng Quân. Trước thời 1959, con đường mang tên là "Nhân Vị", gợi nhớ
cái tên Đảng Cần Lao Nhân Vị thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Trước đó nữa, năm
1955, đó là đường Jean Jacques Rousseau. Trước nữa nữa, thời Pháp thuộc,
con đường này được gọi là "Armand Rousseau", tay tổ làm rượu vang
Burgundy wine, tiếng tây kêu là Vin de Bourgogne. Con đường này sau trận
đổi đời 1975 còn được nối dài qua đường 48 lụp xụp với những khu lao
động.
2. Người Quả Phụ và Tiếng Súng Bất Tử
Trước
mặt tôi là chị Nguyễn Thị Mai, người góa phụ hiền hòa của đại úy Nguyễn
Văn Đương. Bốn mươi hai năm trước, ngày để tang anh, chị chỉ mới vừa
tròn ba mươi tuổi, đã sống thờ chồng, nuôi con sau khi anh cố thủ và tự
sát trên đồi 31 tại Hạ Lào ngày hai bốn tháng hai năm một chín bảy mốt.
Tôi
đến thăm chị Mai vào một buổi trưa. Saigon trời nắng và nóng như thiêu
đốt muốn ngộp thở. Căn nhà nhỏ xíu chiều dài và chiều ngang khoảng hai
mươi lăm mét bề bộn các đồ vật ngổn ngang không có lối đi. Biết tôi ở xa
về thăm, chị rất vui và cảm động. Chị gầy lắm trong bộ đồ bà ba xám.
Tóc cắt tém ngắn, lùi xùi, khuôn mắt khắc khổ, làn da sạm nắng dãi dầu
gió bụi của đất Sài gòn.
Tôi
ngồi bên cạnh chị trên chiếc sập gỗ trước nhà, nghe chị kể chuyện về
cuộc đời bà quả phụ Nguyễn văn Đương và cái chết của anh ở Hạ Lào. Với
giọng nói rặt miền Nam, trí nhớ bị ngắt quãng mỗi khi hồi tưởng, chị
chậm rãi khi kể về quá khứ.
Sau
năm bảy lăm, chị bị tai nạn do các thanh gỗ mục nát từ trần nhà rơi
xuống, Con mắt trái đụng mạnh vào góc bàn sắc nhọn. Sau hai lần giải
phẩu không thành, con mắt giờ chỉ còn là một miếng da trắng bao phủ con
ngươi. Chị bị mù hẳn.
Ngày
đó anh Đương là pháo đội trưởng của pháo đội 3, tiểu đoàn 3, pháo binh
nhảy dù, căn cứ đóng ở đồi 31 Hạ Lào. Thỉnh thoảng anh được về phép.
Tiền lính "tính liền", không đủ cho chị trang trải một gia đình năm
miệng ăn gồm chị và bốn đứa con trai đang tuổi lớn, chị phải quơ quào
chạy ngược chạy xuôi, khi thì làm nghề dệt vải, khi thì bán chè sương sa
hột lựu ở chợ Thiếc để kiếm tiền phụ anh nuôi con. Hai đứa con trai đều
mất vì bệnh gan sau bảy lăm. Một người đi làm xa. Cô con dâu không đi
lấy chồng, ở vậy nuôi hai đứa cháu nội ở gần nhà chị. Đứa con trai út
tên Nguyễn Viết Xa, ngày anh Đương mất, cậu chỉ mới tám tuổi. Hiện anh
vẫn còn độc thân, làm nghề chạy xe ôm và ở chung với mẹ.
Chị
đưa tôi xem tờ giấy đánh máy đã ố vàng, cũ kỹ, chị còn giữ như một kỷ
niệm. Đó là năm một chín bảy mốt, chị nhận được tờ giấy có con dấu đỏ
của tiểu đoàn pháo binh báo tin anh Đương mất tích. Sau đó là tờ giấy
báo tử. Chị xé bỏ tờ giấy báo tử vì tin rằng anh Đương còn sống. Anh có
thể bị bắt làm tù binh hay đang ở một nơi nào trong rừng sâu núi thẳm.
Một ngày nào đó anh sẽ tìm được đường về.
Cuối
cùng, mặc dù tờ giấy báo tử đã xé bỏ, bà mẹ bốn con phải chấp nhận một
sự thật đau lòng khi những người bạn của anh còn sống sót trở về kể
chuyện pháo đội của anh bị bao vây, anh bị thương nặng ở chân, anh đã
gọi pháo đội phá hủy căn cứ và tự sát bằng khẩu súng Colt với một viên
đạn bắn vào đầu. Cái chết hào hùng của anh tại ngọn đồi 31 Hạ Lào đã là
nguồn cảm hứng cho người nhạc sĩ yêu lính sáng tác bài "Anh Không Chết
Đâu Anh".
Từ
Mỹ, tôi có đọc một tờ báo viết về ước nguyện của chị được một lần cuối
trong đời sang Lào thăm ngọn đồi 31 nơi anh Đương hy sinh. Những người
thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa và những người quả phụ có chồng là tử
sĩ hầu như đã bị lãng quên sau bảy lăm. Hơn bốn mươi năm, họ sống lặng
lẽ, âm thầm trong bệnh tật và khó khăn về kinh tế trong đó có gia đình
bà quả phụ Nguyễn Thị Mai.
Chị
kể gần đây có chương trình giúp đỡ thương phế binh và quả phụ tử sĩ,
gia đình chị đã được sự giúp đỡ của nhạc sĩ Nam Lộc và Hội HO. Phải đợi
đến khi tin tức về ước nguyện của người quả phụ được phổ biến rộng rãi
trên báo chí, nhiều người đã gọi điện thoại hay trực tiếp đến thăm và
sẵn sàng giúp đỡ về tài chánh cho chị thực hiện ước nguyện này.
Ngày mười hai tháng tư, chị sẽ cùng người con trai út lên đường sang Lào tìm hài cốt anh ở đồi 31.
Chị
dẫn tôi lên căn gác nhỏ, đồ đạc vương vãi trải khắp lối đi trên cầu
thang và sàn nhà. Đây là bàn thờ anh Nguyễn Văn Đương với bức ảnh màu và
bức ảnh đen trắng có ghi dòng chữ " Anh Không Chết Đâu Anh" và vài bức
ảnh khác của anh đặt cạnh bát nhang, bình hoa và dĩa trái cây. Chị bùi
ngùi kể mỗi khi chị nhớ anh, chị đứng nhìn bức ảnh hồi lâu và âm thầm
cầu nguyện anh sống khôn thác thiêng phù hộ cho ước nguyện của chị sang
Lào tìm hài cốt anh trở thành sự thật.
Cuộn
băng cassette đã cũ thâu lại bài hát "Anh Không Chết Đâu Anh" chị đã
nghe đi nghe lại hàng trăm, ngàn lần đến nỗi dây băng đã nhão, âm thanh
đã rè, tiếng hát đã lạc giọng, có đoạn không còn nghe chút âm thanh nào
nhưng chị vẫn giữ như một kỷ niệm.
Chị
rất vui khi nghe tôi nhắc đến trong một băng thu hình chủ đề về lính,
nhạc cảnh cố nhạc sĩ Nhật Trường đóng vai Đại úy Nguyễn Văn Đương và ca
sĩ Thanh Lan đóng vai người quả phụ, một lần nữa đã được dựng lại với kỹ
thuật hiện đại và âm thanh tuyệt hảo trên sân khấu hải ngoại.
Chị nghẹn ngào tâm sự:
-
Đồng bào mình ở nước ngoài vẫn còn nhớ anh Đương hả em? Bây giờ chị vui
lắm vì anh Đương được nhiều người nhắc đến và chị được nhiều người hỏi
han, an ủi. Nhờ bà con mình giúp đỡ, chị sắp gom đủ tiền để sang Lào tìm
tro cốt anh. Đây là chuyến đi xa đầu tiên và cuối cùng trong đời để chị
hoàn thành ước nguyện tìm đến nơi anh đã hy sinh, mang tro cốt anh về
để chị được gần anh trước khi chị nhắm mắt.
Được
tin chị đã trở về sau chuyến đi Lào bình an cũng là ngày tôi bận rộn
chuẩn bị về Mỹ nên không có thì giờ đến thăm và từ giã chị. Tôi gọi
phone và nghe chị kể chuyện về chuyến đi mất ba ngày bằng máy bay và
đường bộ, tuy vất vả nhưng gặp nhiều may mắn và thuận lợi. Điều chị tâm
đắc nhất là câu chuyện tâm linh về trái táo rơi trên ngọn đồi 31 và niềm
hạnh phúc nhất là đã mang được nắm đất của anh về thờ tại quê nhà.
Trên
ngọn đồi 31 thuộc vùng hạ Lào hoang vu, trống vắng và khô khốc, ban
ngày thì nóng hầm hập vì những ngọn gió Lào, ban đêm thì lạnh vì sương
mù trên vùng cao, hơn bốn mươi năm về trước, khu vực này đã từng là bãi
chiến trường đầy máu lửa của hai lý tưởng, hai ý thức hệ chính trị, hai
chế độ Quốc gia và Cộng sản. Cả hai phía đều quyết tâm dồn hết lực lượng
chiếm lĩnh vùng đất đã để lại những địa danh lịch sử như Khe Sanh, hành
quân Lam Sơn, đường 9 Nam Lào…
Trong
lúc hai mẹ con đang thì thầm khấn vái vong hồn anh Đương linh thiêng
phù hộ cho việc đi tìm hài cốt, cùng với nhóm người dẫn đường, ai cũng
hoang mang không biết đâu là nơi anh Đương đã hy sinh thì một quả táo
trong bịch ni lông chị đang cầm khi không bỗng rơi xuống đất. Chị sợ và
lạnh toát cả người. Có phải đây là thần giao cách cảm giữa hai cõi âm
dương, linh tính hay giác quan thứ sáu của người vợ quyết chí đi tìm hài
cốt chồng hay là vong hồn anh Đương linh thiêng về ra dấu, chỉ dẫn cho
hai mẹ con biết đây chính là nơi anh đã nằm xuống. Chị quyết định chọn
vị trí này để cúng kiếng, trải tấm chiếu, bày biện các lễ vật, nhang
đèn, tấm hình anh Đương và không quên chiếc mũ đỏ của binh chủng Nhảy
Dù.
Ngày
ấy, "trên khăn tang cô phụ" và "giọt nước mắt nóng hằng đêm cho anh cho
anh" đã nhỏ trên mặt gối. Giờ đây, trên ngọn đồi âm khí nặng nề với mùi
khói hương lãng đãng bao quanh, chị thì thầm khấn vái, kể lể, nhắn nhủ
với anh. Lần đầu tiên, những giọt nước mắt của người quả phụ khóc chồng,
người con khóc cha đã nhỏ xuống mảnh đất xa xôi ở xứ người, mảnh đất đã
từng nhuộm máu "người anh hùng mũ đỏ tên Đương" và các đồng đội cùa anh
trong trận tử chiến tại ngọn đồi 31.
Bốn
mươi năm trôi qua, hài cốt của anh bây giờ đang ở đâu? Chẳng phải con
người ta sinh ra từ cát bụi và trở về với cát bụi? Chị hốt một nắm đất
mà chị tin rằng đó là tro bụi từ hài cốt của anh và các bạn đồng đội đã
bị vùi lấp, tan rữa theo thời gian. Vong hồn anh Đương từ nay sẽ theo
nắm đất ấy về an nghỉ nơi Tịnh Xá Trung Tâm, một ngôi chùa ở quận sáu để
chị có dịp thường xuyên đến thăm anh và tụng cho anh những thời kinh
siêu độ.
Khi
sống đã không được gần nhau thì khi chết xin được ở bên nhau. Đó là ước
nguyện của chị Mai sau khi nhắm mắt, thân thể chị sẽ là tro bụi và được
đặt bên cạnh nắm đất của anh thờ trong chùa.
Cho
dù dĩ vãng có phôi pha, thời gian có xóa nhòa những kỷ niệm và những
hình ảnh có phai mờ theo năm tháng nhưng âm nhạc và lời hát của những
bản nhạc đánh dấu một giai đoạn lịch sử như cuộc chiến tranh Việt Nam,
"Anh Không Chết Đâu Anh" sẽ mãi mãi còn sống trong lòng những người Việt
tha hương yêu lính.
"… Ôi, đất mát trên đồi xanh, tình yêu khóc ngất bên cỏ tranh. Đâu cánh dù ôm gió, đây cánh dù che kín đời anh…"
"Trong những tiếng reo hò kia, lẻ loi tiếng súng anh nhiệm mầu. Ôi tiếng súng sau cùng đó…
Tiếng
súng đã không giết được hình ảnh người chiến sĩ trong lòng người quả
phụ Nguyễn thị Mai. Nó đã trở thành tiếng súng bất tử.
Cali ngày 14 tháng 5 năm 2016
Phùng Annie Kim
No comments:
Post a Comment