Tuesday, September 14, 2021

Một mẩu chuyện về Đồi 31(Phần III) Phan Hội Yên Ngọn đồi vĩnh biệt

Tôi vẫn có thói quen, vài ba lần một ngày, nhảy qua tần số Đại đội để nghe ngóng, và tối nay, cũng trong dịp tình cờ như thế, tôi đã nghe đích thân Hồng Thiếp của 32 báo về Tiểu Đoàn những tin tức không mấy lạc quan. Cuộc chuyển quân của địch đã đột ngột dừng lại trước vị trí của đơn vị anh không đầy năm trăm mét, bầy sói đang ở tuyến tấn công. Đại đội 32 đang căng thẳng trong một mệnh lệnh cứng ngắc của tiểu đoàn, “chận chúng lại.” Tôi bỗng cảm thấy thương Thiếp vô cùng.
Khi còn chung một đại đội, anh là nỗ lực chính thường trực của đơn vị, qua hai đời đại đội trưởng, trong khi bọn tôi “nhái lặn chà quơ” thì Trung đội ba của anh gánh gần như hết gánh nặng của Đại đội. Lính lác rên rỉ…Sao cái gì cũng thằng Ba…mở đường, Ba, đột kích! Ba, tuần thám! Ba…Cũng chịu thôi, đã gần như một quy luật bất thành văn của đơn vị; Thiếp xuất thân khóa 22A Võ Bị, khi tôi về Đại Đội thì anh đã là Thiếu Úy trải qua Mậu Thân khói lửa…Đồng Ông Cộ, ngã năm Bình Hòa, An Nhơn…Bà Điểm. Đã từng đổ quân đánh úp tái chiếm đồi 1416, rồi dẫn đầu đoàn quân cùng đơn vị đánh một trận phản phục kích xe tuyệt đẹp trên quốc lộ từ Dakto Tân Cảnh về Kontum, bề dày trận mạc của anh làm cho thượng cấp yên tâm phần nào trước những lựa chọn gay gắt.
Khi chúng tôi, ba đứa, On, Hàm và tôi, cùng khóa 26 Thủ Đức bò lên Thiếu Úy thì anh đã là Trung Úy, vẫn chia nhau 4 Trung đội của Đại Đội 33, cùng mày tao chi tớ, cùng bàn bạc rượu chè, cùng mượn qua mượn lại năn ba ngàn mỗi khi cháy túi.
Trong cuộc hành quân Toàn Thắng 70, Khinh Kha của Đại Đội 32 bị thương, ngay lập tức, anh được đưa lên nắm Đại Đội. Chúng tôi vui mừng chia xẻ với anh niềm hân hoan trong trọng trách mới, và tự nhiên, không còn bông đùa bỡn cợt, dù anh vẫn thế, thân mật lắm cũng chỉ gọi nhau bằng ông ông, tôi tôi. Anh đi, gánh của anh ở Đại Đội về phần tôi vác, khóa của anh đến Tiểu Đoàn 6 người nay chỉ còn lại mình anh. Khóa của tôi trình diện Tiểu Đoàn 8 đứa, ba năm sau nhìn lại, chỉ còn một mình tôi may mắn…
Nay anh đứng trước một thử thách nghiêm trọng, mà tài trí, dũng cảm không có khả năng thay đổi được tình thế. Đây là nội dung đoạn âm thoại tôi đã nghe đêm qua giữa Hồng Thiếp, Đại Đội Trưởng Đại Đội 32 và 00 (Bộ chỉ huy tiểu đoàn). Xin được viêt lại bằng bạch văn:
– 09 đây 02!
– 09 nghe
– Cua bò gần tôi quá, xin không kích.
– Có thấy nó không? Bao nhiêu con?
– Chỉ nghe tiếng máy, khoảng chừng 15 con có đèn.
– Loại gì?
– Không rõ!
– OK, không quân đang đến, bằng mọi giá, giữ vững vị trí, chận nó lại cho đến sáng mai, sẽ có tăng viện cho anh.
– Nhận rõ!
Tôi vội vã trở về tần số nội bộ khi phía Tây Nam, hướng Đại Đội 34 chợt rộ lên tiếng súng.
Lệnh báo động đã được phát ra từ chiều, nay được dồn dập nhắc lại, chúng tôi đã sẵn sàng trên chiến hào cho một trận sống mái.
Tôi biết, Thiếp cũng như tôi và tất cả sĩ quan trong đơn vị đều hiểu rõ, khả năng tăng viện cho chúng tôi không còn hiện thực, khi đơn vị trừ bị chính của Lữ Đoàn đã được vội vã ném vào Thái Thanh và thiệt hại khá nặng. Như thế chỉ còn trông chờ viện binh từ một đơn vị ngoài binh chủng, mà hy vọng này lại còn mong manh hơn khi từ hậu cứ những tin đồn về sự mâu thuẫn gay gắt giữa các vị Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn với nhau, và với Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn về sự khác biệt của quan điểm chiến thuật, chiến lược, hệ thống chỉ huy, v.v. Những tin đồn đó, đã theo các chuyến bay tiếp tế vào tận tâm can những người lính đang trải thân ngoài mặt trận. Hơn nữa, lực lượng địch đã tập trung với quân số đông đảo, hỏa lực vượt trội – gồm hai Trung Đoàn Bộ Binh, phối hợp với chiến xa và đại pháo, mở một trận thế hoàn toàn mới mẻ về chiến thuật, quyết đánh chiếm căn cứ 31, thì việc ném thêm một hay hai Tiểu Đoàn (khả năng có thể có) của ta vào trận địa, không có vũ khí cũng như kinh nghiệm chống chiến xa, chỉ là hạt muối bỏ biển. Từ trước đến nay, chúng tôi đã phải tăng viện hết nơi này đến nói khác khắp 4 vùng chiến thuật, đem ít nhiều hy vọng đến cho đơn vị bạn trong cảnh ngặt nghèo cô thế, nay canh bạc như đã đến hồi tháu cáy, biết có còn ai chia được lửa với chúng tôi?
Pháo đội B3 bắn dữ dội lên tọa độ địch tập trung quân, dù chỉ còn ba khẩu đội không nguyên vẹn. Tôi tìm gặp Già Sâm, Hạ Sĩ Nhất Chính và anh em trên tuyến chiến đấu, M72 còn 8 trái cho cả Trung đội. Trên đường tiếp cận từ bãi trực thăng lên căn cứ, chúng tôi hy vọng có thể chận xe tăng địch khi chúng bắt đầu ngóc lên triền đồi, không loại trừ yếu tố bộ binh tùng thiết, đề nghị đại đội cho rút toán tiền đồn của Hạ Sĩ Nhất Muôn về, để tăng cương tuyến phòng thủ, vì ở đó Muôn không đủ khả năng cầm cự, khi địch đã vượt qua được Đại Đội 32 hiện đang ở xa Muôn hơn một cây số về phía trước. Đề nghị không được chấp thuận, tôi thông báo cho Muôn đầy đủ tình hình, và điều tôi chỉ có thể truyền đạt cho anh là điệp khúc “cẩn thận, cẩn thận” quá ư thừa thãi như tôi đã nhận từ đại đội. Tôi hỏi:
– Muôn có ý kiến gì không? Có cần gì thêm không?
Hỏi cho có hỏi vậy thôi, chứ khả năng trung đội không còn gì để giúp Muôn bớt cô quạnh. Anh chàng còn xổ nho chùm làm tôi nổi quạu… “cái tật không bỏ…nan ư thượng thanh niên cái con khỉ gì giờ này nữa cha nội.” Tôi nói xa nói gần cho Muôn hiểu, tùy theo tình hình, anh có quyền quyết định.
Thượng sĩ Đàng nhắc chúng tôi giữ lấy bên mình mỗi người một khẩu phần gạo sấy phòng khi thất thế; điều này tôi đã nghĩ tới nhưng không dám nói ra, nhất là không dám truyền đạt cho trung đội ý nghĩ bi thảm đó; cảm ơn Thượng Sĩ đã nhắc nhở.
Tôi ngồi với Yến bên cạnh cây M60 chong xuống sườn đồi, mù tênh sương khuya trên những ngọn núi im lìm bóng tối, cái lạnh thấm vào gan ruột đang bồn chồn chờ sáng; từng đám lửa bập bùng bên những triền núi đã cháy lên từ bom đạn, bập bùng bập bùng, mang tôi về hồi ức xa xăm của những ngày thơm ngát mùi phượng vỹ, hai bờ sông rực rỡ nắng hanh vàng.
***
Tôi chân ướt chân ráo đeo bảng hiệu đoàn với chữ QH nằm giữa ba gạch ngang, mặt câng câng tưởng mình là cái rốn của vũ trụ khi có dịp cùng đám con gái trường bên tụ tập trong chương trình văn nghệ của hai trường sẽ được tổ chức ở rạp Hưng Đạo. Khả năng văn nghệ đầy mình của tôi dĩ nhiên được trọng dụng. Tôi được phân hai vai trong chương trình, vai thứ nhất là hát trong giàn đại hợp xướng, bài hát “Lửa Rừng Khuya” do tác giả là thầy Văn Giảng soạn hòa âm và tập dợt. Ôi!
Chuyện dễ ẹt, tôi tự nhủ. Chỉ cần đứng đó nhóp nhép miệng cũng hoàn thành nhiệm vụ, khoái nhất là được nhìn đám con gái đang đổ mồ hôi hột vì tập hát. Con Cẩm Tú, con Thục Đoan, con Khánh Vỹ, con Phùng Nga, con Vân Nghê…mấy đứa này mới học đệ ngũ đệ tứ mà bày đặt điệu bộ, ngày thường dễ gì nói được với tụi nó vài câu? Ngay cả lúc cùng đợi, cùng chung một chuyến đò ngang đi học, tụi hắn cũng chúi vào nhau rúc rúc rích rích; đám con trai chúng tôi dáo dác ngó lui ngó tới, không biết có thằng nào mặc quần thủng đít, nay tụi nó đứng đó, miệng méo qua méo lại, đầu lắc lư như bà bóng, gân cổ nổi xanh lè theo cao độ của điệp khúc…
“Ta ngồi trong ánh mắt sương đêm, ta cùng cất cao lời nguyền, thề đồng tâm ta quyết thờ sông núi, đem vinh quang xây đắp ngày tươi mới,ơ ờ ơ…u ù u.”
Cái chỗ ờ ơ ù u này mới ăn tiền, nhất là khi thầy ra ngoài giao lại cho thằng Thắng trưởng ban, đến ngay lúc cần mở miệng để ù u ờ ơ thì thằng Tuế lôi trong túi ra một…trái chanh, hắn tỉnh bơ vân vân vê vê trên tay, làm như vô tình vô ý, thế là cả đám con gái háu ăn chú mục nhìn vào tay hắn, nuốt nước bọt ừng ực, ù u ờ ơ trở thành ậm ậm ừ ừ…
Xong tập hát, tôi lại chạy xuống phòng khác nhập một vai quan trọng trong vở kịch “Thành Cát Tư Hãn” của kich tác gia Vy Huyền Đắc; vai này nếu không có tôi, thì vở kịch trở nên thiếu trước hụt sau, chứ sao? Thử hỏi mỗi lần Đại Đế nổi trận lôi đình, ra oai “Quân bây!” mà không có tôi dõng dạc “Dạ” một tiếng rõ to thì còn gì là Đại Đế, đó là chưa kể nhiều lúc tập lui tập tới quá mệt, Đại Đế vẫn cứ lụp chụp trong động tác đỡ cái ngã tuyệt vời của Công chúa thành Tây Hạ, đang đau đớn trước cảnh nước mất nhà tan. Ngài thấy tôi đứng xớ rớ bèn bán cái… “Quân bây! Đỡ công chúa cho ta!” tôi nhào vô đỡ liền sau khi “dạ” thật to theo quân lệnh, mặc cho Công chúa Tây Hạ, bà chằng lửa cùng xóm, học chung lớp với tôi mấy năm Tiểu học, tròn mắt nạt… “Quân! không được hỗn!”
Vậy đó, mà buổi trình diễn văn nghệ của hai trường thành công ngoài sức tưởng tượng. Vé bán hết trước đó cả tháng, tôi chẳng bao giờ quên được tiếng hát ngọt ngào của chị Túy Vịnh “Nhìn những mùa thu đi” khơi giòng cho nhạc Trịnh Công Sơn ra biển nhớ. Và tươi trẻ của tam ca “Đêm đô thị” được biến tấu theo điệu twist đang thịnh hành của những năm 62, 63 (hình như có công chúa Tây Hạ trong ban tam ca này); không kể cái đinh của chường trình là vở kịch kinh điển, chúng tôi đã ứa nước mắt khi cả rạp hát cùng đứng dậy vỗ tay sau màn đại hợp xướng của gần năm, sáu mươi nam nữ học sinh của hai trường, dưới quyền điều khiển của Nhạc sĩ Văn Giảng, giáo sư dạy nhạc của chúng tôi. Bài hát trầm hùng sau này vẫn theo mãi tôi trên bước đường hành quân xuôi ngược…
“Mờ sương rơi mênh mông, âm u ngàn gió lá. Khuất bóng ánh trăng sao, ngồi quanh hơi núi giá. Ta khơi lửa hồng bập bùng bập bùng trong đêm thâu…”
***
Bập bùng bập bùng trong đêm thâu. Lửa rừng đêm bây giờ không còn là lời mời gọi của một thời lãng mạn, hiền hòa mơ ước, rừng núi đã cháy lên dữ dội, thiêu đốt hàng hàng lớp lớp thanh niên trai tráng buồn bã xếp bút nghiên theo tiếng gọi non sông. Những Tú, những Đoan, những Khánh Vỹ…ngày nào giờ có người đã trở thành góa bụa vừa qua tuổi hai mươi son trẻ.
Tiếng súng lại rộ lên, cùng lúc địch bắt đầu pháo kích mạnh mẽ vào căn cứ, tôi nhảy xuống hầm áp ống nghe vào tai. Đại đội cho biết ba toán tiền đồn của đại đội 34 đang bị tràn ngập bởi bộ binh địch. Ngay lúc đó hướng Bắc của 32 cũng đang bị xe tăng địch công kích, cuộc tấn công đã bắt đầu, hình như hôm đó, rạng sáng ngày 25 tháng Giêng năm 1971.
Các Đại Đội ngoại vi thúc thủ trước quân số quá đông đảo của đối phương trong khi còn phải chật vật đối phó với chiến xa đang tràn lên như chỗ không người, nên Đại Đội 32 được lệnh rút nhanh về căn cứ 31 để bảo toàn lực lượng, riêng Đại Đội 34 rút về chân đồi phía Đông.
Thế nhưng, trước khi 32 về đến căn cứ thì chiến xa địch đã lổm ngổm bò lên vị trí của Muôn, và phần việc của chúng tôi đã tới. Tôi nhìn thấy tổ tiền đồn bắng trúng đích một chiếc, cụm lửa vàng khè lóe lên, phủ trùm khói đen trên mục tiêu. Khói tan, chúng tôi tưởng như nằm mơ, chiếc xe tăng vẫn chậm rãi tiến tới, nòng đại bác trên chiến xa vẫn khạc lửa dữ dội vào tuyến phòng thủ căn cứ. Muôn cố gắng bắn thêm hai trái nữa vẫn vô hiệu, anh xách súng dẫn đồng đội lăn xuống triền đồi khi thêm sáu chiếc nữa cùng với bộ binh địch hò hét áp đảo tràn lên vị trí, chúng tôi hướng tất cả hỏa lực bắn che cho Muôn và một vài toán của Đại đội 32 rút về căn cứ, cùng lúc đó hai chiến đấu cơ A-4 Skyhawk của Thủy Quân lục chiến Mỹ và một phi tuần trực thăng võ trang Cobra xuất hiện, oanh tạc mạnh mẽ vào đội hình tấn công của địch.
Tất cả hỏa lực của chúng tôi, cùng với một khẩu đội B3 trực xạ cận phòng và các tuyến tiên liệu được các pháo đội khác ở căn cứ A Lưới, 30 bắn yểm trợ đã tạo nên một hàng rào lửa vững chắc, chặn hết lực lượng xung kích của bộ binh địch ngay tại vị trí cũ của Muôn. Xác địch ngã trên triền đồi, lăn xuống vực thẳm, ngổn ngang như những khúc gỗ từ một khu rừng vừa đốn vội, chưa bao giờ chúng tôi phải bắn nhiều như thế. Hai khẩu M60 đã thay nòng liên tục, quạt từng giây đạn quét phủ lên mặt trận. Phải nói Yến bắn đại liên thật tài, chân hai càng được xếp gọn, nòng súng tựa hờ lên công sự tạo một tầm chuyển dịch rộng lớn và dễ dàng cho xạ trường, để từ đó phủ gọn tuyến tiếp cận của địch dưới tầm khống chế của con gà nòi dũng mãnh.
Mất sự hướng dẫn của bộ binh, chiến xa địch khựng lại; hình như họ muốn chỉnh lại đội hình cho một đợt xung phong khác với hơn mười chiếc đã ở trong tầm quan sát mà chúng tôi nhìn thấy. Ngay lúc đóm hai chiếc Skyhawk nối đuôi xà xuống sau trái khói chỉ điểm, từng trái napal hừng hực xé gió quăng xuống mục tiêu chính xác, dũng cảm, mặc cho hỏa lực phòng không đạn chi chit phủ kín đường bay. Trận địa địch bùng lên trong cánh rừng xăng đặc, hai chiếc xe tăng tiền kích ngập trong khói lửa bốc cháy dữ dội, lính xe tăng nhảy ra khỏi xe, người cháy phừng như ngọn đuốc, lăn lộn, quơ quào rồi ngã gục theo tiếng nổ bung của chiến xa trúng đạn. Lên tinh thần, Khinh binh Thông cùng với ba chiến sĩ khác băng vọt ra khỏi chiến hào, chạy nhanh xuống lưng chừng đồi, cõng về được hai thương binh của 32 và một của chúng tôi từ tổ tiền đồn rút về, nửa đường bị trúng đạn. Hạ sĩ Nhất Muôn đã tử trận tại vị trí đó.
Trận chiến vô cùng ác liệt, tất cả các sự kiện đã, đang và tiếp tục được mô tả, gần như diễn ra cùng một lúc, dồn dập, chồng chéo lên nhau, đan chặt vào nhau rồi như bị một sức mạnh vô hình xé bung ra trăm ngàn mảnh. Người viết, dù đã tận mắt chứng kiến, đã là một chiến binh trực tiếp chiến đấu trong những giờ phút gian nguy đó, vẫn không tài nào lột tả hết được tất cả mọi diễn biến hung bạo, tàn khốc của chiến trận..
Trung đội của chúng tôi đã chiến đấu, trước hết và duy nhất chỉ là vì sự sống còn của bản thân, phải lấy hết sức mình đương cự lại những bước chân của tử thần đang lần lượt gọi tên từng mạng sống. Không còn con đường nào khác, không ai là anh hùng, không ai là dũng sĩ, không ai muốn “Anh dũng hy sinh” mà vẫn phải chết như rơm như rạ.
Lợi dụng lúc thưa tiếng súng, tôi nhổm dậy luồn theo giao thông chạy dọc tuyến Trung đội, kiểm điểm lại lực lượng. Toán tiền đồn sáu người chỉ về đến được ba, hai người chết tại vị trí, Muôn lại đã để nỗi ước mơ bình thường của mình vỡ vụn từ sau lưng ra trước ngực trên đường về, và ngay tại tuyến, một vị trí trúng đạn từ chiến xa địch, một chết. Cái chết của người lính tử trận giống nhau từ thiên cổ, không phân biệt bên này hay bên kia chiến tuyến, cũng đen đủi đau đớn, cũng co quắp quằn quại, tay bấu chặt lấy mặt đất như không đành lìa nỗi bọt bèo của cuộc sống…
Trong khi phía chúng tôi, áp lực địch tạm thời giảm nhẹ tuy họ vẫn còn ở đó, thì phía bên kia, tuyến phòng thủ của Trung đội 3 lại vô cùng nguy khốn. Toán tiền đồn năm người của trung đội, do một binh nhất khinh binh chỉ huy, tại một chỏm đồi thấp hướng Tây Nam căn cứ vừa bị tràn ngập, sau khi đã chiến đấu đến người lính cuối cùng, ngoan cường, đẩy lui bốn đợt xung phong của địch, tôi đã nghe trong máy tiếng gào khàn khàn tuyệt vọng lồng trong tiếng súng vang trời của những người quyết tử của truyền thống một đổi năm, mười nếu chẳng may thất thế. Không cường điệu chút nào khi tuyên dương họ như những anh hùng đã chết trong vinh quang, danh dự khi địch tràn lên vị trí bằng không biết bao nhiêu xương máu đánh đổi.
Ngay tại vị trí này, địch nhanh chóng bố trí một cụm hỏa lực mạnh mẽ gồm 2 cây 82 ly không giật và một 12ly8 vừa phòng không, vừa bắn trực diện, khống chế trọn vẹn vị trí của Trung đội 3. On la chói lói trên máy để xin lệnh Đại Đội…nó bắn quá chịu hông nổi, sập bốn hầm chết hết rồi. Đại đội lại gọi tôi, hỏi có tăng cường cho 3 được không? Tôi báo cáo tình hình trên tuyến của mình và đoán chắc hướng tấn công chính là ngay tại nơi đây, tại tuyến của chúng tôi, khi phía trước không phải là năm hay sáu chiến xa, con số đã trên mười chiếc đếm được và vô số bộ binh địch đang lúc nhúc dưới những cành lá ngụy trang.
Pháo địch vẫn rót tràn đều lên vị trí, san bằng, vạt thẳng tất cả mọi thứ. Có điều bây giờ chúng tôi không còn lo lắng, vì không còn phân biệt được đâu là pháo phe ta, đâu là “cà nông” phe địch trừ khi nó nổ. Đã nổ rồi thì phận ai nấy biết. Đỉnh đồi trở nên bằng phẳng, và hình như đã thấp hơn phần nào so với khi chúng tôi vừa mới đến, nhờ thế chỉ cần quay lưng nhìn về phía thằng 3, chúng tôi cũng nhận rõ vị trí lợi hại của cụm hỏa lực đó; một vài trái bắn hụt lao vèo qua phía chúng tôi rồi mất hút nổ xa xa; họ bắn liên tục nên họ quên một điều là cùng chiến đấu với chúng tôi còn có pháo đội B3.
Tôi khom người chạy lên vị trí khẩu trọng pháo, chỉ cho trung Sĩ Nhất khẩu đội trưởng vị trí 82 không giật của địch. Và nòng pháo từ từ hiệu chỉnh, tôi nín thở theo cái gục đầu chầm chậm của khẩu pháo 105 ly hướng về mục tiêu…và “Bắn”. Người hạ sĩ pháo thủ giật cò, viên đạn rơi nòng trực chỉ khâu đội địch Ầm… chúng tôi nhảy lên reo hò sung sướng khi nhìn thấy rõ ràng khẩu 82 ly không giật của địch tung bắn lên trời sau tiếng nổ chính xác. Chỉ một viên đạn thôi, các chiến sĩ pháo binh đã triệt tiêu hiểm họa đó.
Tần số trên máy truyền tin bị nhiễu loạn vì quá nhiều trùng lấp, lẫn lộn những mẩu đối thoại tối nghĩa, chỉ nhận biết nhau nhờ quá quen thuộc tiếng nói giữa các hiệu thính viên, cũng như vài phân biệt nhỏ của ngôn ngữ truyền tin. Tuyến của chúng tôi nằm cách xa Bộ chỉ huy Đại Đội, nên gần như độc lập tác chiến, tôi chỉ kịp thông báo cho Đại Đội là địch bắt đầu tấn công trở lại, rồi nằm hụp xuống nghe lằn đạn veo véo trên đầu; đội hình địch từ triền núi bên kia xuất hiện đông đảo trên đỉnh đồi rồi chia nhau tràn xuống, lấp ló trồi sụt dưới mưa bom bão pháo. Pháo địch bắn ta, nếu quá tầm cũng nổ trên đầu địch; bom đồng minh yểm trợ, lạng lách thế nào không biết, cũng roi ngọt xớt xuống đầu ta, bêu đầu sứt trán; la hét om sòm tiếng Đức, tiếng Mỹ, thây kệ mẹ nó, đằng nào cũng phiêu diêu miền cực lạc.
Bắn phá một hồi, hai chiếc Skyhawk rời vùng và nhanh chóng mất hút cuối chân trời, còn lại hai Cobra đảo lui đảo tới ạch đùng ạch đùng mấy giây hỏa tiễn trúng ngay vào đám xe tank cũng chẳng thấy hề hấn gì. Trực thăng bắn cứ bắn, chiến xa địch vẫn tiến trong đội hình tấn công dưới sự che chở của hỏa lực phòng không. Lần này họ thay đổi chiến thuật sau khi đã nướng khá nhiều bộ binh trong đợt xung phong trước, thiết giáp xung kích mở đường, bộ binh lom khom lấp ló theo sau, không còn hò hét ngậu xị.
Hai chiếc phản lực khác vào vùng lần này là Phantom F4C, trong khi hỏa lực phòng không cũng đã áp sát chân đồi, OV10 lảng vảng trên cao bắn trái khói chỉ điểm cho Phantom lao xuống mục tiêu. Điều không may cho chúng tôi là trong đợt tấn công đầu tiên của phi tuần này, trái bom lửa vừa phủ lên chiến xa, thì đồng thời chiếc F4C cũng bị bắn tung đuôi trong khi ngóc đầu lên sau đợt oanh kích. Múi dù sặc sỡ mở bung trước khi con tàu bốc cháy, lảo đảo đâm vào vách núi nổ vụn. Thế là tất cả máy bay có mặt trong khu vực, kể cả hai chiếc Skyhawk mới vào vùng, chưa bắn một phát đạn, bảo vệ cho phi công lâm nạn chờ trực thăng cấp cứu. Chúng tôi không rõ họ có cứu được đồng đội hay không, nhưng từ giây phút đó, chiến trường gần như bỏ ngõ cho chiến xa lồng lên áp đảo.
Xe tăng địch lập tức ào ạt xung phong, hai…ba…năm, bảy, mười một chiếctất cả cùng lao xuống, bỏ lại bộ binh phía sau, một chiếc bò ngang chông chênh bên sườn đồi, lãnh nguyên trái pháo ngang chông chênh bên sườn đồi, lãnh nguyên trái pháo 105 ly trực xạ hất nhào xuống vực thẳm, chúng vừa bắn vừa tiến và đã chiếm được bãi trực thăng. Chúng tôi đã thấy khả năng hiệu quả của M72 không nhiều và không thể bắn ở khoảng cách quá xa nên phải chờ đợi. Tất cả hỏa lực của chúng tôi chỉ có thể tạm thời trì hoãn tốc độ tiến quân của bộ binh địch trong trời gian ngắn, khi chiến xa chưa tiếp cận vị trí, tách chúng ra khỏi sự che chở của chiến xa để dễ đối phó.
Hạ sĩ Nhất Chính và Tiểu đội Khinh binh lãnh nhiệm vụ đón đánh đợt đầu tiên khi xe tăng vượt qua bãi đáp, tiến vào yên ngựa hẹp trước khi bám vào căn cứ, đây là địa thế duy nhất có thể khống chế đội hình địch, bắt buộc chúng phải lần lượt từng chiếc một theo hàng dọc tiến lên. Chính dẫn theo Bình, Tám và Ngôn, mỗi người một cây M72 đã ở vị trí chờ kích hỏa, luồn theo giao thông hào, chận ngang con đường xuống bãi tiếp tế. Chuẩn Úy Nghĩa muốn theo Chính, tôi nhìn anh ái ngại, thôi Nghĩa à! Cần gì phải vội, anh ở đây chờ thay tôi là tốt nhất, ai cũng sẽ có phần…Tôi nghĩ thầm nhưng không nói với Nghĩa đã thấm cái đau xót trước những thân xác đồng đội ngay từ mặt trận đầu tiên của đời quân ngũ. Mặt Nghĩa hừng hực, mắt long lên như con thú bị thương. Tâm lý chung của những kẻ đang không còn đường trở lại, và thế là phải vượt lên phía trước, vượt qua cái hèn bản chất của chính mình, không còn một khái niệm gì giữa cuộc sống và cái chết, mà có khi chết còn thanh thản hơn sống.
Chúng tôi hồi hộp nhìn theo hai chiếc xe, tăng dẫn đầu đang bò theo con dốc hẹp, đám bộ binh đã bị hai cây đại liên gài chéo cánh sẻ, cùng với tốc đội bắn nhanh của M16 đè đầu, nằm dán xuống đất lãnh pháo, bò lui bò tới không theo kịp chiến xa, kể như thiết giáp đã bị mù nên nó cũng thận trọng xử dụng tối đa cây đại bác dọn đường.
Chính chờ chiếc đi trước bắt đầu ghếch mũi súng lên đầu dốc, phơi toàn bộ cái ức xám xịt trước mũi súng, khoảng cách chừng hai mươi mét, anh bình tĩnh bóp cò. Trái đạn đen thui vẽ một đường thẳng chớp nhoáng lao vào mục tiêu, nổ bùng vào cái mặt ù lỳ dị hợm. Tưởng như mọi thứ phải tan tành hay bốc cháy trước sức công phá trực diện của trái hỏa tiễn, thế nhưng chiếc chiến xa chỉ khẽ khựng lại, như có vẻ giật mình chút đỉnh, rồi lại tiếp tục tiến lên, không cháy, không nổ, không hề suy suyển. Thấy nguy, Tám bồi thêm một trái trúng ngay hông pháo tháp khi nó vừa vượt ngang tầm; vẫn khỗng hề hấn gì. Thế là cả toán đành dạt ra, ném tới tấp lựu đạn vào gầm xe, trong khi chiếc xe đi sau cũng vừa bám theo được và tác xạ đại liên tới tấp vào vị trí của Chính, tên xạ thủ 12ly8 chưa bắn được bao nhiêu đã lãnh nguyên một tràng M16 gục xuống, xác hắn vắt vẻo trên thành xe.
Chúng tôi bất lực để cho chiếc số 1 tiến thẳng vào căn cứ, chiếc số 2 vừa nối theo thì Chuẩn Úy Nghĩa nhảy phắt lên, thẩy gọn một trái M26 vào trong lòng pháo tháp. Anh chưa kịp nhảy xuống thì trúng đạn, gục chồng lên xác địch thủ cùng lúc với tiếng nổ “bụp” tức tối. Khói từ trong chiếc chiến xa bốc lên. Sao nó vẫn chạy, vẫn tiến lên phía trước? Nó chạy quờ quạng thêm một đoạn ngắn rồi nổ tan ra thành hai mảnh, pháo tháp bật ngược ra sau cùng với xác của Nghĩa.
Được chiếc số một mở đường, cả đám xe tăng cùng ào ạt tiến lên kéo bộ binh đông như kiến cỏ, lúp xa lúp xúp. Một chiếc trờ tới ủi chiếc bị cháy xuống sườn núi, lấy đường tiến lên, trong lúc chiếc số 1 đã vào hẳn vị trí trung tâm, bắn phá Bộ Chỉ Huy Pháo Đội và mon men tìm tới Lữ Đoàn. Chúng tôi cố gắng dùng hết hỏa lực trì hoãn bước tiến của xe tăng địch, nhưng vô ích. Không có một trái M72 nào có khả năng công phá vỏ thép chiến xa dù các chiến binh đã thừa gan góc tiếp cận từ mọi hướng, trước, sau, hông, bụng, pháo tháp, bánh xích. Chúng đóng kín pháo tháp, chỉ xử dụng đại bác và đại liên song hành càn lên hầm hố, công sự, giao thông hào. Mũi xung kích của địch càn lên chiếc hào, xé Trung Đội chúng tôi ra làm hai mảnh, với tình thế đó, bắt buộc phải ra khỏi vị trí cố thủ, đánh cận chiến với…xe tăng.
Đã có bốn chiếc lọt vào căn cứ, trong lúc bộ binh vẫn còn vất vả phía ngoài, chúng tôi vẫn để hai cây đại liên, và hai cây khác của Trung Đội 1 vừa mới chuyển qua, bắn ghìm bộ binh, phần còn lại lao vào tank địch. Chiến trường không chỉ là của Trung Đội, mà cả Đại Đội đã lồng lên, bu kín các chiến xa, mặc do cho nòng súng quay tròn gạt xuống. Nhưng làm gì được? Đã bắn hết số M72 để gãi ngứa chúng. Đã ném không biết bao nhiêu lựu đạn để làm nhột chúng. Đã chỉa nòng M16 thật gần chỉ bắn vỡ được kính mắt mèo…không lẽ lấy răng mà cắn? Sức cùng lực tận, hai cây đại liên vừa hết đạn là bộ binh nương theo khói lửa tràn lên, không biết cơ man nào mà đếm. Chúng tôi vừa đánh vừa lùi, lùi trên xác đồng đội, lùi trên những đôi mắt đớn đau tuyệt vọng của những chiến sĩ bị thương không còn người cứu chữa đang nằm chờ chết.
Cả ngọn đồi đã trở thành biển lửa và máu khi tất cả hỏa lực của hai bên đều tập trung tác xạ vào một tọa độ duy nhất, dù mục đích vẫn khác nhau rất xa… “Bắn lên đầu tôi đi! Vĩnh biệt! Bắn lên đầu tôi đi! Vĩnh biệt!” Trên tần số Đại Đội đã vọng lên lời từ biệt gởi khắp bốn phương. Hai chiếc phản lực chúi xuống đỉnh đồi, chùm bom đen đủi lao xuống mục tiêu là một bầy xe tăng bốn năm chiếc, và cả chúng tôi mình trần thân trụi. Tôi sững sờ đứng như trời trồng nhìn chùm bom lao xuống đầu mình, thật nhanh, thật nhanh, thật gần và gần hơn nữa, rồi chỉ kịp ôm nón sắt nằm chúi vào vách đá trong một loạt tiếng nổ vang rền, long trời, đất đá, sắt thép, mảnh bom, mảnh thịt người, rơi lào rào, lịch bịch.
Đồng minh oanh tạc thật chính xác! Đỉnh đồi nát bấy những mảnh vỡ của công sự, những chiến sĩ cuối cùng của pháo đội B3 cùng với Đại Úy Nguyễn Văn Đương, Pháo Đội trưởng đang kiên cường trong những cố gắng gan góc, tác xạ trực diện vào xe tăng địch đang loay hoay, lúng túng trước địa hình lồi lõm, hầm hố mà khoảng cách chỉ là năm, mười mét. Kể từ lúc đó, chiến địa mất hẳn liên lạc với Pháo Đội B3. Không quân đồng minh đã đưa những con người có khả năng thay đổi tình thế đó vào quân sử. Riêng xe tăng đối phương lại nằm ngoài tầm ảnh hưởng của đợt bom công phá, dù khoảng cách cũng chỉ có 5, 10 mét. Họ đã có đồng minh mới.
Thế nhưng, trận chiến vẫn chưa phải đã kết thúc, dù phần thắng bại đã thể hiện rõ rệt. Máy bay vào vùng trở lại đem chúng tôi về cõi hồi sinh, dù sao đợt oanh kích lầm lẫn tai hại đó đã giúp lực lượng địch nống thêm một bước nữa, đẩy quân ta xuống sườn đồi, chúng tôi vẫn nghĩ việc oanh tạc sai mục tiêu, bắn lầm vào quân bạn là việc rất bình thường giữa chiến trường, nên vẫn còn hy vọng vào phương tiện yểm trợ hữu hiệu này.
Ba phần tư ngọn đồi đã nằm trong tay địch, chúng tôi chỉ còn giữ được một phần Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, Lữ Đoàn, nhưng không còn ai trong những vị trí đó. Tất cả đã ra ngoài cùng sát vai chiến đấu, và hệ thống chỉ huy liên lạc vẫn duy trì đầy đủ cho đến cấp trung đội, dù trên thực tế, một trung đội còn không quá 10 người còn khả năng chiến đấu. Sau khi tái phối trí lực lượng, chúng tôi được lệnh trực tiếp của tiểu đoàn, tổ chức một cuộc phản kích toàn bộ trên trận tuyến, cố gắng chiếm lại các vị trí đã mất với hy vọng không quân sẽ yểm trợ hữu hiệu để giữ vững căn cứ.
Khi đã qua phần mở màn đầy kịch tính của lo âu, sợ hãi nơi con người thèm sống, khi mà khói súng đã quyện vằn vện với mồ hôi trên mặt, khi những vết máu đồng đội đã đông cứng trên hai tay người lính chiến, thì khái niệm sống, chết bỗng trở thành vô nghĩa, nhất là trong hoàn cảnh không còn có thể chọn lựa như ở đây, tất cả chỉ còn là định mệnh. Vì thế, tất cả đã hăm hở lao lên trong một cố gắng tuyệt vọng, lại bắn, lại thụt M72, lại ném lựu đạn, lại leo tràn lên xe tăng địch, mà bây giờ đã có bộ binh phối chiến, mặt đối mặt với lưỡi lê báng súng, lăn xả vào nhau bắn giết, đâm chém, lại loay hoay không biết phải làm gì với khối sắt di động đó, lại bị thương, lại ngã gục giữa bom bầy pháo lũ, pháo nổ chụp, pháo công phá, pháo nổ chậm, trên đầu chụp xuống, dưới đất nổ hất tung lên, phạt ngang lưng, chém ngang cổ. Bom, pháo cả hai bên cùng bắn vào một chỗ, lính cả hai phía cùng chia nhau lãnh đạn, đạn bắn thủng xuyên màng tang trổ ra sau ót, óc vỡ tung ra với máu, vài cái nón sắt lăn lông lốc trên những đôi dép râu tuột quai, nhầy nhụa trong một dòng nước đỏ ối đang khởi thủy vết chảy ngoằn ngèo của một dòng sông máu.
Xác chết từ hai phía thân ái ôm chầm lấy nhau rồi đổ ụp xuống nằm cạnh nhau hiền hòa như chưa hề quen biết làm ngọn núi chợt cao lên muôn ngàn lời ai oán.
Đợt phản kích không đủ sức mạnh để đạt hiệu quả mong muốn, và từ dưới chân đồi tràn lên một đợt sóng biển người và chiến xa khác. Địch tung toàn bộ lực lượng vào đợt tấn công quyết định, trong khi phía chúng tôi đã sức cùng lực tận, đành chấp nhận rút lui để hạn chế thương vong.
Ngôi sao của cuộc tử thủ đến giờ phút cuối cùng là trưởng ban ba Tiểu đoàn, Thiếu tá Lê Hồng (danh hiệu truyền tin là Hồng Vân) với sự bình tĩnh hiếm có và khả năng Anh ngữ lưu loát đã lần lượt củng cố lại đội hình đơn vị, ngăn không để sự hỗn loạn xảy ra; ông thực sự là cấp chỉ huy cao nhất trận địa, dù vẫn còn Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn Phó và các cấp cao hơn của Lữ Đoàn. Với bốn, năm chiếc máy cần liên lạc, ông trực tiếp chỉ huy chúng tôi bố trí lại trận chiến, trực tiếp hướng dẫn các phi tuần phản lực Mỹ oanh tạc vào trận địa, và điều chỉnh pháo binh bắn cản. Tất cả đó đã giúp cho đơn vị rút khỏi căn cứ trong vòng trật tự, bảo tồn được phần lực lượng còn lại.
Trong hoàn cảnh bi thảm như thế, mà triệt thoái được như một cuộc lui quân bình thường, quả không phải là điều dễ kiến tạo, nếu tự thân đơn vị không có truyền thống kỷ luật, và nhất là người chỉ huy thiếu quyết đoán. Viết vài dòng để tỏ lòng khâm phục ông, tôi vẫn không cảm thấy có điều gì hổ thẹn, dù không biết ông còn sống hay đã chết, và dù sau này giữa ông và tôi có nhiều khúc mắc, nhất là sau những lầm lỗi đời thường của tôi trong những ngày đóng quân ở Thuận An, tôi đã bị chính ông đì sát ván.
Giá trị đích thực của mỗi một con người đều được thể hiện rõ rệt trong những gian nguy thử thách. Khả năng chỉ huy tại trận tuyến của ông, đã đánh bạt hết bao nhiêu ý nghĩ bất phục của giàn sĩ quan đại đội trưởng, đa số xuất thân từ hai quân trường lớn của Quốc gia, nay lại phải dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan đồng cấp, lại khởi đầu binh nghiệp bằng quân hàm thấp nhất của quân đội: Binh nhì. Dù tất cả cấp bậc của ông đều đã được tái đào tạo cùng với cấp bằng văn hóa tương đương mà ông đã tự học bằng những khoảng thời gian ngắn ngủi giữa hai cuộc hành quân.
Đơn vị rút xuống khe núi, trung đội tôi chỉ còn lại tám người, có Thượng sĩ Đàng và Trung sĩ Yến. Hạ sĩ Nhất Chính đã tử trận lúc một chiếc chiến xa nghiến qua người sau khi anh đã bị thương trong đợt phản kích. Tiểu đội khinh binh chỉ còn lại Thông, Ngôn và Tám, tôi lại được xuống cấp làm tổ trưởng khinh binh, dẫn hai ông tổ phó mở đường rút cho đơn vị, mang theo được rất ít thương binh nhẹ, trong đó có Bé, trung đội trưởng trung đội một.
Cái đau bại trận thấm lên từng khuôn mặt mệt mỏi, chán chường, không đủ can đảm nhìn thẳng vào mắt nhau, dù chỉ để đôi điều chia sẻ. Tôi bỗng hổ thẹn vô cùng trước giọt nước mắt âm thầm lau vội của Thượng sĩ Đàng; ông đã yêu những người lính trong trung đội bằng tình yêu thương ruột thịt, nên cũng đau gấp vạn lần từ thiếu vắng, tang hoang, buồn tủi trước cái nhìn trân trân vô hồn của Thông và Tám. Họ đang nghĩ đến số đồng đội bị thương đang chờ chết trong tay địch, điều mà từ trước tới nay, chưa ai một lần nghĩ tới.
Rừng chiều bổng đổ mưa. Tiếng sấm gào cùng với tiếng pháo tàn trận, dội vào vách núi, vỡ vụn ra những âm thanh buồn bã của hồi chuông tử biệt. Mưa tuôn rì rào trên lá, rì rào lời kinh chiêu hồn vang vọng. Trung đội lầm lủi tiến về phía trước, theo sự hướng dẫn của đại đội 31 còn nguyên vẹn, đang tiến về căn cứ, và chờ chúng tôi ở hai cây số đông đông bắc. Trong khi ở một hướng khác, đại đội 34 cũng đang đón phần còn lại của đại đội 32, trước khi tập hợp tại một vị trí định sẵn. Chờ lệnh mới.
Buổi chiều tắt dần theo những đôi mắt ngoái nhìn cứ điểm đang ngập chìm trong khói lửa. Đêm, đêm rủ xuống vách núi chông chênh, cao thấp những bước chân đau buồn sống sót và giữa rừng núi âm u chợt nghe tiếng ai thở dài đâm vào vết đá, tiếng thở dài trôi xuôi hàng quân đang chênh vênh bên bờ vực thẳm, cắn răng nuốt nổi uất hận, trung đội vẫn ghìm chắc tay súng, đoạn hậu cho toàn đơn vị rút qua.
Chúng tôi nhận lệnh trực tiếp từ tiểu đoàn, tổ chức chốt chặn, để tất cả thương binh nặng, nhẹ mang theo được, sẽ cùng đại đội 31 và bộ chỉ huy tiểu đoàn rút trước qua triền núi bên kia, sau đó, sẽ tìm gặp đại đội 34 đang cùng với một bộ phận khác của tiểu đoàn di chuyển cách đó chừng bốn cây số đông đông bắc, móc nối, dẫn đường cho hai cánh quân gặp nhau.
Nhiệm vụ nghe có vẻ nhẹ nhàng, nhưng quả thực, khi đồng đội cuối cùng khuất sau hẽm núi, chúng tôi cảm thấy vô cùng cô đơn với sáu người còn lại. Và trên đồi 31 vẫn ầm ì tiếng pháo truy kích của xe tăng địch bắn vu vơ vào vách núi.
Chắc chắn khi leo lên được đỉnh đồi 31, địch đã gánh chịu một sự tổn thất không thể bù đắp nổi về quân số, nên họ đã không còn khả năng tổ chức truy kích, vì thế, “trung đội sáu người” bớt được gánh nặng nghênh cản để lần mò theo tiếng súng hướng dẫn, tìm về đại đội bạn. Cho đến quá nửa đêm thì gặp nhau, và chỉ kịp siết chặt nắm tay chào hỏi, gấp rút quay theo đường cũ, dẫn theo đại đội 34, về gặp lại tiểu đoàn trước khi trời sáng. Thời gian không còn thuộc về chúng tôi.
Đoàn quân lần dò trong bóng tối của trùng điệp núi rừng, bám vai nhau tuôn dần xuống dốc núi dựng đứng, cố gắng tiến thật nhanh về điểm hẹn, nơi đó, một đơn vị bạn đang trên đường tiếp ứng. Đến gần sáng, chúng tôi gặp được quân bạn đang hướng tới đồi 31 cùng với chiến xa, để rồi sau đó, được trực thăng bốc về Khe sanh, tái bổ sung và trang bị lại đơn vị.
Người lính khinh binh, khi thắng trận, vinh quang trải xuống theo hệ thống quân giai, thưởng nầy thưởng kia huy chương thăng thưởng, tuyên dương tài điều binh khiển tướng, hạ sĩ như Thông giỏi lắm lãnh sao bạc đồng, với dăm ba ngày phép. Khi thất thế, nếu may mắn sống sót trở về, lại gánh hết trách nhiệm một kẻ bất tài, làm như việc thất thủ cứ điểm chỉ là do sự yếu kém của người lính chiến đấu. Các quan to súng ngắn, các nhà tham mưu, kế hoạch, hoàn toàn vô can, phủi bỏ trách nhiệm một cách thản nhiên khi những đồng đội của Thông đã nằm lại trên chiến địa. Thế nhưng họ chẳng bao giờ phân vân trên những ti tiện đời thường, để vẫn hăm hở cắp súng lao về phía trước, quên cả an nguy bản thân để thi hành mệnh lệnh.
Giai đoạn một của cuộc hành quân Lam Sơn 719 kết thúc cùng với sự thất thủ liên tiếp các căn cứ hỏa lực 31, 30, A Lưới. Đáng lẽ vị “Tổng Tư Lệnh quân đội” và vị “Tư lệnh tài ba” của Quân Đoàn I, cũng là tư lệnh cuộc hành quân sớm nhận chân được thất bại, để dừng lại các quyết định ngoài khả năng. Trái lại, xương máu các đơn vị còn lại, là trụ cột chống đở Miền Nam sau nầy, lại được họ ném vung vãi, vô tội vạ, vào cối xay thịt mà đối phương và đồng minh đã dàn sẵn, từ Lao Bảo, lên tận Tchepone!
Máu lính tế thần đã dâng cao hơn hoạn lộ, để cho bước chân của Tổng thống Nixon trên Vạn lý Trường thành bớt gập ghềnh khúc khuỷu.
Hết.________________________________________
Phan Hội Yên
Nguồn: Bài do tác giả gởi, đã viết từ 1998 trong cuốn “Hạ sĩ Khinh binh”. DCVOnline minh hoạ và chú thích.
“Khoảng 4 giờ hay 4 giờ 05 thì Đương nói: ‘11 ơi, em không liên lạc với 11 nữa, vĩnh biệt 11!’ và rồi tôi không nghe gì nữa.
Tôi nghĩ lúc đó Đương đã vĩnh biệt tất cả đồng đội. Trước khi chết, Đương cho tôi biết, anh chỉ còn có hai viên đạn cuối cùng trên nòng súng mà thôi! Và đó là cái chết của Nguyễn văn Đương trên mặt trận Hạ Lào. Sau đó khoảng 5 phút, Đại Tá NguyễnVăn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 gọi cho tôi nói: ‘11 làm ơn bắn ngay trên đầu tao đi.’Trên máy bay tôi cho lệnh tất cả các pháo đội sử dụng đạn nổ CVT, dù sao tôi cũng sợ bắn đạn thường rơi vào hầm hố của quân mình, nên tôi dùng đạn CVT.
Khai hỏa vào khoảng 4 giờ 15, thì tất cả 4 pháo đội đồng khai hỏa bắn vào căn cứ 31 và bắn giết cả bạn lẫn thù, lần đầu tiên trong đời pháo thủ của tôi! Khi tôi vừa ra lệnh bắn, thì Đại Tá Lưỡng và tôi cùng cả phi hành đoàn đều bật khóc. Đó là cái chết của Đại Úy Nguyễn Văn Đương và Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù tại mặt trận Hạ Lào.”
Trích, Trung tá Bùi Đức Lạc, 
“Chuyện Một Thời Khói Lửa Chiến Chinh!”






Một mẩu chuyện về Đồi 31(Phần II) Phan Hội Yên

Trong số địch tử thương, có hai người là cấp chỉ huy, trong căn hầm bị Trung sĩ Yến, Tiểu đội trưởng Tiểu đội hỏa lực số hai bắn sập bằng M72, có cả máy truyền tin Trung cộng, hai xác chết đeo hai cây K59 còn mới.
Và thật đau đớn, ngay khi nhận được lệnh di chuyển khỏi vị trí, chúng tôi vĩnh viễn mất người chỉ huy thân thiết, tài giỏi. Thượng sĩ nhất Xá băng ngược đội hình, chạy lên tìm tôi:
– Trung úy! Đại úy chết rồi!
– Sao? Sao?
Tai tôi lùng bùng, không tin điều mình đang nghe.
– Thượng sĩ Đàng! Thay tôi chỉ huy Trung đội.
– Vâng! Trung úy.
Tôi theo ông Xá chạy quành về Bộ chỉ huy Đại đội. Trên vết nổ còn bốc khói của một trái ly 82, Đại úy Lê Thành Bôn, Đại đội trưởng Đại đội 33 Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù đã anh dũng hi sinh; hai tay ông còn nắm chặt ống liên hợp trên hai chiếc máy truyền tin vỡ nát, bên cạnh hai người lính truyền tin hy sinh cùng lúc. Tôi biết, trong những mệnh lệnh mà ông truyền đạt trên máy, yếu tố hạn chế thiệt hại cho thuộc cấp là ưu tư hàng đầu của người sĩ quan nhân hậu, đằm thắm và tài ba nhất tiểu đoàn. Nếu không có ông, mấy ai đã nghĩ ra trận hỏa công thần sầu đem chiến thắng về cho đơn vị với thiệt hại tối thiểu.
Tôi nằm hụp xuống khi tiếng đạn xé gió lao tới, hai máy truyền tin không còn xử dụng được, phải kéo máy của Trung đội hai và Trung đội bốn về để duy trì cchir huy liên lạc. Tôi lên máy báo về Bộ chỉ huy tiểu Đoàn:
– Không chín đây Phú Bổn!
– Không chín nghe!
– Đích thân Phú Bổn đã về nhà.
– Tôi hiểu! Giữ nguyên vị trí! Hồng Vân sẽ cho lệnh tiếp.
– Phú Bổn nhận.
– Không ba đây không sáu.
– Không ba nghe (Không sáu – Sĩ quan hành quân tiểu đoàn. Đại úy Lê Hồng)
Không ba bây giờ là Phù Đổng. Phù Đổng bẻ cổ gà gặp Hồng Vân. (Bẻ cổ gà: thay tần số liên lạc)
– Phù Đổng nhận
Tôi nhận được lệnh tạm thời chỉ huy Đại đội trong khi chờ đợi một vị Đại úy khác ra thay thế, và cấp tốc đưa đơn vị trở lại Thanh Lan, dành khoảng trống mục tiêu cho một vệt B52 sẽ cắt ngang trước nửa đêm.
Tạm thời, nhưng tôi biết là sẽ vô cùng nặng nề đối với chàng thanh niên hai mươi lăm tuổi, chưa tròn bốn năm lính kể cả chín tháng ở quân trường, dù đã vững chải trong nhiệm vụ Trung đội trưởng, quen thuộc chiến trường với hai mươi chín, ba mươi người lính, quanh quẩn tới lui cũng chỉ có hai tiểu đội hỏa lực, một tiểu đội khinh binh, khả năng điều động chiến thuật cũng đơn giản, chỉ đâu đánh đó, mà ông Đại đội trưởng đã thân mật, gần gũi như một người anh cả trong gia đình, về tuổi quân cũng như tuổi đời. Địch trải rộng tầm pháo kích suốt trận tuyến khi mặt trời vừa tắt bóng.
Gồng mình với trách nhiệm mới và thật vô cùng lúng túng trước tiếng đạn réo bom rơi, hai tai léo nhéo hai ống liên hợp, không biết phải nghe thằng nào trước thằng nào sau. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn nóng lòng thấy chúng tôi bị pháo kích liên tục lại đòi hỏi phải tái xác định chính xác vị trí súng cối địch, chính xác? ở đây tôi nào có nghe được tiếng nổ đầu nòng của họ, tôi nói phải nhờ thằng 32 “Hồng Thiếp” và 31 “Minh Châu” đang quanh quẩn đâu đó, không xa vị trí chúng tôi xác định giúp, quay qua máy nội bộ giải quyết nhiệm vụ của On và Bé, để hoạch định kế hoạch rút đơn vị trở lại Thanh Lan, tôi vẫn giữ danh hiệu cũ:
– Một, Hai, Ba đây Phú Bổn! Trao máy đích thân.
Chờ các Trung đội lên máy đầy đủ, tôi vắn tắt kế hoạch triệt thoái. Biết địch vẫn dai dẳng bám trận địa, như con thú đang bị đánh đau; nếu chúng tôi sơ ý quay lưng lại tức thì họ sẽ chồm lên dữ dội, trong lúc đó, chưa biết tình hình “Thanh Lan” như thế nào? Và câu hỏi đã thực sự làm chúng tôi lo lắng; liệu có cái bẫy nào dương sẵn ở đó? Cũng chẳng còn thời gian lưỡng lự, tôi quyết định gởi Thượng sĩ Đàng, trung đội hai thận trọng thâm nhập Thanh Lan, không bằng con đường tiến quân buổi sáng, mà bằng một lối đi tắt khác, ngắn hơn, kín đáo hơn bên sườn trái.
Trong lúc đó, On và Bé vẫn phải cố thủ ở vị trí cũ ở tuyến trước, sau khi kín đáo rải vài trái claymore, và các vị trí M60 sẵn sàng chiến đấu, thành phần còn lại bắt đầu…đào hố chiến đấu, hoặc sửa sang lại các hầm hố của địch. Chỉ giả vờ thôi, chúng tôi muốn địch hiểu rằng, chúng tôi sẽ cố thủ ở đây và sẵn sàng chờ đợi cuộc phản kích của họ, tất cả nón sắt của thương binh, tử sĩ đều được chuyển lên phía trước cho Trung đội một và Trung đội ba, đặt rải rác chung quanh vị trí sau khi lấy thuốc muỗi bôi đều lên làm tăng độ bắt sáng. Dưới ánh sáng mờ mờ của hỏa châu, những chiếc nón sắt tròn láng, chắc chắn sẽ được địch nhận ra dễ dàng, dù đã được “khéo léo” ngụy trang với dăm ba chòm lá trước khi rời vị trí.
Bầu trời trong và cao vời vợi, pháo đội B3 vẫn duy trì bắn cận phòng và chúng tôi an tâm với sự yểm trợ hửu hiệu đó. Thành, Sĩ quan đề lô trấn an:
– Tao đã xin ông Đương bắn hết mình cho mày!
Tôi cảm ơn anh, toán tiền sát Pháo binh đi theo đại đội có ba người nay chỉ còn hai, và nổi mất mát không còn là của riêng ai để chia xẻ.
– Phú Bổn đây Hai!
Tôi chụp vội ống liên hợp:
– Nghe Hai.
– Đã gặp lại Thanh Lan, vô sự.
Tôi thở phào nhẹ nhõm:
– Làm ăn kỹ chưa?
Đàng cho biết, đã lục soát kỹ và không có dấu vết gì khả nghi.
Tôi gọi Trung đội một yểm trợ Trung đội bốn chuyển thương binh, tử sĩ rút theo đường cũ, liên lạc trực tiếp với Trung đội hai tránh ngộ nhận, Bộ chỉ huy đại đội rút sau cùng với Trung đội ba.
Cho đến khi chúng tôi đã rút trọn vẹn về vị trí an toàn, địch vẫn liên tục pháo kích vào vị trí “không người” mãi tới sáng hôm sau.
Hai mươi lăm năm sau, khi có điều kiện hồi tưởng lại toàn bộ sự việc và diễn tiến cuộc hành quân của đơn vị trong phạm vi hiểu biết cũng như tất cả biến cố mà mình đã trực tiếp tham dự hoặc chứng kiến để viết lại thiên ký sự này tôi vẫn không tin những quyết định mâu thuẫn và thiếu tính đồng nhất chiến thuật là quan điểm độc lập của Lữ đoàn.
Dĩ nhiên, được rút ra khỏi trận địa là một điều nhẹ gánh cho đơn vị tôi, và dù ai chỉ huy Lữ đoàn hay Tiểu đoàn lúc đó, cũng phải ra một mệnh lệnh tương tự khi mà phía Đồng minh đã thông báo vị trí chúng tôi nằm trên tọa độ oanh tạc của B52. Thế nhưng, độ chấn động của những trái bom năm trăm pounds được rải xuống hôm đó chỉ đủ làm rung cánh võng… Nghĩa là cách xa chúng tôi ít nhất cũng trên mười cây số.Để rồi mấy ngày sau (khi chúng tôi đã được rút về căn cứ), khi nhận thấy có những nguy cơ xuất phát từ đó để uy hiếp đồi 31. Bộ tư lệnh cuộc hành quân đã cho đổ bộ hai đại đội của Tiểu đoàn 6 Nhảy dù xuống những ngọn đồi chúng tôi đã chiếm được và đã triệt thoái, với tình thế khác hẳn. Ở đó, địch đã trở lại với quân số nhiều hơn và đã dọn sẵn một tọa độ pháo kích tập trung, chính xác. Chúng tôi ở trên đồi 31, quan sát cuộc đổ bộ của đơn vị bạn bằng mắt thường, lòng xót xa theo những cụm khói bốc lên của đạn pháo địch…
Những thách thức cam go đã bắt đầu lộ diện kể từ sau cuộc đổ quân đẫm máu đỏ.
***********
Chưa tới một tháng, Trung đội chỉ còn lại mười tám ngoe, kể cả tôi. Đã thêm hai cái chết đau đớn của Binh nhất Mão và tân binh Xuất cứ dai dẳng ám ảnh tôi.
Trên đồi 31
Trở về với Trung đội, dưới quyền chỉ huy của một vị Đại úy Đại đội trưởng khác, chúng tôi vẫn còn thấy như quanh quẩn đâu đây, bóng dáng người chỉ huy cũ, quanh quẩn đâu đây hương hồn đồng đội quấn quýt bên những bữa cơm đạm bạc của chiến trường. Ngay cả việc phải thay đổi danh hiệu trên tần số liên lạc cũng xốn xang bứt rứt, làm sao quên được trong chốc lát cả một thời gian dài gắn bó, chia xẽ nhau những buồn vui chinh chiến, làm sao tưởng tượng được nỗi đớn đau của người thân bên áo quan phủ Quốc kỳ “Vị Quốc Vong Thân”. Chiến tranh rồi sẽ qua đi, những ngọn đồi loang lỗ sẽ xanh tươi màu lá, người sống sẽ lần hồi quên lãng dù nỗi đau hiện tại có ngất trời tuyệt vọng, chỉ có những người đã chết, mà chết trẻ, là mãi mãi mất mát, là mãi mãi thua thiệt mọi bề.
Tôi chợt nhớ đến chị, người họa sĩ duyên dáng bên Đại úy của chúng tôi, trong những lần triển lãm tranh, và anh vẫn thỉnh thoảng rủ chúng tôi về nhà ngồi nhâm nhi nhìn chị vẽ; những bức tranh của chị sao quá nhiều bóng tối, bóng tôi ngay cả giữa mặt trời và ngay cả giữa một rừng hướng dương hàm tiếu… Căn nhà nhỏ vùng Bạch Đằng, Gia Định chưa cạn rượu tân hôn đã vỡ òa nước mắt cô phụ. Không biết bao nhiêu vành khăn tang đã cuốn lên tóc xanh vội vã trong cơn lốc oan nghiệt của chiến binh. Tôi tự hỏi, không biết mình có lỗi gì trên những giọt máu đồng đội đã khô tím trên chiến địa, những giấc ngủ hằn vết đớn đau trên khuôn mặt phận người, của bao nhiêu ước vọng thanh xuân đã tan hoang theo binh lửa, theo những điều không thể lý giải được giữa can qua, của Kiều, của Chí, của Sỹ…của Đại úy. Và còn bao nhiêu người nữa hay sẽ tới phiên mình, tôi chợt cười khan, cũng khỏe thôi, Ba tôi đã có lần dẫn Thu, em gái tôi lặn lội từ Quy Nhơn vào tận vùng hành quân của đơn vị khi một nguồn tin tai ác nào đó báo rằng, tôi đã chết.
Em tôi khóc trên những bông lúa dẫn vào điểm đóng quân, vết chân non nớt của em bên vết bước già nua của Ba tôi trên sình lầy mùa mưa ven đô như lưỡi dao cắt vào hồn tôi xé thịt…
“Anh là chiếc đũa so le, anh không thể mãi khập khễnh bước bên sự ấm êm của gia đình, đôi lúc anh nghĩ, sự vắng mặt của anh là cần thiết, để cho Ba, em và các em chẳng còn phân vân trên bến bờ hạnh phúc…”
Trước khi lên đường, tôi đã cay đắng với em và Ba như thế, dù người tôi muốn nói không hề là Ba và em, nhưng tôi biết, chỉ có em chia sẻ được với tôi những căm phần thơ dại, như ngày nào em rón rén đến bên tôi, trên chiếc mộ chí cỏn con tôi đã đắp bằng những đầu ngón tay rướm máu, tôi chôn…những đồng bạc đã xé rách theo nước mắt u uất; em ngây thơ trao hết phần tiền Ba cho em đầu kỳ lương hàng tháng, mà không biết tại sao khi nào cũng nhiều hơn phần tôi có. Tôi là cái ly, hằng ngày hứng những giọt bất công nhỏ xuống đời quạnh quẽ, mỗi tháng cái ly đầy lên một lần theo món quà nhỏ mà nhiều thiên vị của Ba. Tôi lai phải đổ đi bằng cách xé vụn những đồng tiền buồn tủi đó; khu vườn nhỏ sau nhà chôn chặt những nấm mộ… tiền, chôn chặt với tôi có nỗi muộn phiền của Mẹ. Không phải Ba ghét bỏ gì tôi, nhưng hình như Ba muốn chứng tỏ với người đó, người đã thay thế Mẹ tôi trong mái ấm của Ba…rằng Ba hạnh phúc…rằng Ba yêu thương những đứa con của hai người… Còn tôi, chín mười tuổi có biết chi lòng dung thứ, có biết chi sự độ lượng, trong tôi chỉ có một tôi bị bỏ rơi, bị hắt hủi, chỉ có một tôi bị quên lãng khôn nguôi. Thằng nhóc con âm thầm và cô đơn kháng cự, tàn nhẫn khước từ sự chia xẻ của cô em khác Mẹ.
Tôi hất tay Thu ra:
– Tao không cần.
– Anh cứ lấy đi, em không biết xài tiền.
– Rồi mày lại mét Thím (Tôi vẫn gọi người ấy bằng Thím)
– Em hứa.
– Thôi, tao chẳng dại.
Thu nhét mấy đồng bạc vào túi tôi rồi vụt chạy vào nhà, mặc kệ tôi ngồi thút thít; tôi ngồi một hồi nước mắt ráo hoảnh để nghĩ đến mấy tấm hình Tạc Zăng treo ngoài chợ, đến mấy viên bi lóng lánh thủy tinh, tính tính toán toán với số tiền Thu để lại…
Chiều hôm đó, em quanh quẩn trong vị trí đóng quân chúng tôi, những giọt nước mắt em và Ba đã khóc cho tôi; tôi chẳng còn cơ hội để khóc tiễn Ba và em về nơi yên nghỉ. Trong cơn lốc vận nước, nắm xương Ba đã vùi nơi đèo heo hút gió (Vợ tôi chẳng dám báo tin khi lên thăm nuôi ở Long Giao). Chỉ còn nỗi ân hận muộn màng khi trở về cải táng Ba xuôi miền quê Nội, trong phút giây đầu tiên gặp lại, tôi tưởng như Ba đang nằm ngủ, buổi trưa nào oi bức nắng vườn cau, tôi nghịch ngợm cắm những sợi tóc bạc vừa nhổ trên vành tai Ba, rồi cười rung lên thích thú nhìn những cọng tóc chui vào tai Ba nhột nhạt, để Ba trở mình…nạp vành tai còn lại cho tôi…Chỉ một giây thôi, tôi lặng người theo vầng trán Ba cao vời vợi khi nắp áo quan vừa mở, có lẽ Ba đã chờ tôi về để tôi được nhìn Ba lần cuối, rồi thôi, bóng dáng Ba mãi mãi tan vào hư ảo.
Còn em tôi, chẳng biết trôi dạt nơi nào trong một chiều giông bão. Khi tôi đã và biết có thể chia xớt dùm em những oan nghiệt của định mệnh thì em đã không còn nữa. Con tàu nào đưa em đi tìm hay đưa em chạy trốn? Đáy biển nào tan rữa xác thân em?
***
Luồn theo giao thông hào, tôi đến hầm của Trung sĩ Yến. Khẩu M60 được bố trí một xạ trường thật rộng, nhìn xuống bãi đáp trực thăng ẩn khuất kín đáo giữa hai ngọn đồi, bên kia, còn có toán tiền đồn của Hạ sĩ nhất Chính án ngữ, trở lại đồi 31 chúng tôi vẫn trú đóng trên vị trí cũ, bảo vệ Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, Lữ đoàn và Pháo đội B3.
Đến đây, tôi xin được vượt thời gian và không gian để trình bày thật chi tiết về lực lượng phòng thủ căn cứ hỏa lực 31, mà suốt thời gian chiến trận, cũng như mãi cho đến ngày hôm nay, phía địch đã đành mà ngay cả phía chúng ta, những người không thật sự có mặt trong trận chiến, thông qua tin tức của các “Phóng viên chiến trường” trong nước cũng như ngoại quốc, ngồi nhâm nhi cà phê ở Givral, La Pagode, hay có gan dạ lắm cũng chỉ quanh quẩn ở Bộ Tư Lệnh tiền phương Quân đoàn I, Đông Hà, Khe Sanh, thêu dệt lên những bản tin thật giật gân, bi thảm hóa một trận thua vốn là lẽ thường của chiến tranh để cho rằng, chúng ta thất thủ đồi 31 tức là Lữ đoàn 3 Nhảy Dù đã bị tiêu diệt. Thông tin kiểu đó, đã vô tình ám ảnh những đơn vị chưa được tung vào mặt trận, mà hiệu quả tâm lý đã chi phối phần lớn khả năng chiến đấu.
Họ không hề biết rằng, ngay sau cuộc hành quân Lam Sơn 719, từ Huế, khi màn diễn binh tại Phú Vân Lâu kết thúc, thay vì được không vận về Sài gòn để dưỡng quân như thường lệ, thì sân bay mà chúng tôi đáp xuống là phi trường Pleiku đất đỏ, với quân số chưa được bổ sung. Lữ đoàn đã lao ngay vào một mặt trận căng thẳng khác: Giải tỏa căn cứ Dakto Tân cảnh do một đơn vị thuộc Sư đoàn 22 Bộ Binh trú đóng, đang bị Sư đoàn 320 Cộng quân vây hãm. Nếu thực sự Lữ đoàn 3 Nhảy Dù đã bị xóa sổ ở đồi 31, tại sao chúng tôi còn đủ khả năng và tinh thần chiến đấu, đánh bật vòng vây của quân địch, một đơn vị tổng trừ bị của Bộ tổng tư lệnh Bắc quân, giải tỏa căn cứ Dakto trong thời gian ngắn nhất? Xin có dịp đến mặt trận này trong một mục khác, để trở lại căn cứ hỏa lực 31.
Như đã trình bày trong phần trước, bản thân căn cứ 31 chỉ là một “căn cứ hỏa lực dã chiến”, có giá trị chiến thuật trong một giai đoạn ngắn. Thường thường trong mỗi một cuộc hành quân, đôi khi chúng tôi lập hai hoặc ba căn cứ như thế, cứ bỏ căn cứ này lập căn cứ khác tùy theo nhu cầu chiến thuật của đơn vị. Do đó về phần công sự, là những vật liệu tại chỗ, không có lấy một cuộn kẽm gai, không có bãi mìn ngoài những trái claymore, như những vị trí đóng quân đêm bình thường, lực lượng phòng thủ không bao giờ vượt qua một Đại đội (không kể Đại đội chỉ huy công vụ của Tiểu đoàn có một phần quân số trong căn cứ, nhưng không có trách nhiệm phòng thủ).
Đại đội 33, Tiểu đoàn 3 Nhảy dù lui về đảm trách phòng thủ căn cứ sau khi đã bị tiêu hao trong trận đánh chiếm Thái Thanh. Với chừng sáu mươi tay súng, phòng thủ một tuyến rộng lớn của Đại đội nguyên vẹn, bao bọc vị trí của Pháo đội B Tiểu đoàn 3 Pháo binh Nhảy dù, (Pháo đội trưởng là Đại Úy Nguyễn Văn Đương), gồm 6 vị trí Pháo. Dĩ nhiên chúng tôi đồng thời phải bảo vệ Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và Bộ chỉ huy lữ đoàn đang trú đóng trong căn cứ. Đó là tất cả lực lượng cố thủ đồi 31. Các đại đội 31, 32 và 34 đang hành quân lục soát bên ngoài, cách xa chừng hai đến ba cây số. Tôi không có cơ hội để tiếp xúc với đại đội 3 trinh sát tại vị trí, nên không thể xác quyết đơn vị nầy đang hiện diện.
Riêng Trung đội chúng tôi, ngoài tuyến phòng thủ, được giao ở mặt Bắc nhìn xuống một triền đồi thoai thoải, còn có nhiệm vụ bảo vệ thường xuyên bãi trực thăng bên ngoài cứ điểm.
Chúng tôi tự tin ở khả năng chiến đấu của đơn vị, và sẽ đủ sức cố thủ cứ điểm trong thời gian cần thiết (cần thiết chứ không phải lâu dài) trước các cuộc tấn công cổ điển tiền pháo kết hợp với đặc công đột kích, nếu được yểm trợ đầy đủ, hữu hiệu và kịp thời. Không bao giờ chúng tôi có ảo tưởng, mình là một đơn vị bách chiến bách thắng, không bao giờ chúng tôi quên rằng, mọi chiến quả thu được trên chiến trường, là nhờ phần lớn sự đóng góp tích cực, vô điều kiện của các hỏa lực yểm trợ. Và chúng tôi từng được yểm trợ như thế.
Ở căn cứ hỏa lực 31, chúng tôi có gì?
Ngoài khả năng cơ hữu của Sư đoàn là các Pháo đội 105 ly ở các căn cứ hỏa lực lân cận, mà hình như cũng phải chật vật đối phó với Pháo binh tầm xa của địch, gồm những đơn bị 122ly, 130ly cơ động, thay đổi vị trí nhanh chóng và hầu hết, đều nằm ngoài tầm tác xạ tối đa của 105ly cũng như 155ly, nghĩa là Pháo binh ta với không tới tầm pháo kích của đại bác địch. Chưa kể mức độ tập trung chưa từng có của một số lượng lớn Bích kích pháo 82ly chung quanh căn cứ. Ưu thế số 1 đã bị đảo ngược.
Để vô hiệu hóa pháo binh địch, chỉ còn trông cậy vào hoạt động của không quân, thế nhưng, lực lượng này lại không thuộc quyền điều động của Bộ tư lệnh cuộc hành quân. Chúng tôi phải “xin” khi cần, còn “cho” hay không lại là chuyện khác.
Với người lính chiến, chẳng có ai quan tâm đến độ dày mỏng của công sự, chẳng mảy may lo nghĩ đến sự vững chắc của căn hầm chiến đấu, họ đã từng chứng kiến sức công phá của pháo binh ta trên những hầm hố vững chắc của địch với những trái delay rơi chính xác nên họ hiểu rằng…lãnh nguyên một trái 122 hoặc 130 ly trên nóc hầm thì chẳng còn gì để phân vân.
Và mức độ pháo kích của địch càng ngày càng dồn dập. Không kể những khẩu đội 82 ly thay phiên nhau suốt ngày thì thụt, pháo binh địch bắn như trống múa lân, sáng trưa, chiều tối, không kể giờ giấc, bắn không e dè sự phát hiện vị trí như trước. Pháo đội B3 đã phải quần thảo với địch gần như hai mươi bốn giờ trên hai mươi bốn giờ không nghỉ, suốt trong thời gian địch bắt đầu tạo áp lực lên căn cứ, cho đến khi kết thúc trận chiến.
Hình ảnh những chiến sĩ Pháo binh tả xung hữu đột giữa trận đối pháo mang khí phách của một chàng dũng sĩ giữa trùng vây quân địch, nòng súng vừa thoắt bên Đông đã hiệu chỉnh về Tây, vươn cao mạn Bắc rồi nhanh chóng ghìm xuống phương Nam, quành quả tới lui tất bật giữa mưa pháo quân thù,như một mãnh sư giữa cơ man chồn cáo, lực bất tòng tâm, trần thân trong nắng lửa vẫn kiên cường trong trận xa luân chiến không cân sức, dù trên mình đã mang nhiều thương tích. Không một ngôn từ nào diễn đạt được hết nét kiêu hùng bất khuất đó của các pháo thủ Pháo đội B3. Nón sắt trên đầu, áo giáp che thân, những khuôn mặt căm đanh uất hận vươn theo nòng pháo, mà tiếng đạn rời nòng nào có khác tiếng gầm nộ hãi.
Thế nhưng, những vị trí pháo binh cố định của ta vẫn lần lượt bị pháo binh địch tập kích trúng đích; với khả năng hạn chế tại mặt trận, các pháo thủ vẫn cố gắng sửa chữa, thay thế các cơ phận bị hư hỏng để duy trì sức chiến đấu của đơn vị.
Hình ảnh những chiến sĩ Pháo binh tả xung hữu đột giữa trận đối pháo mang khí phách của một
Nhờ thế, những vị trí 82ly quanh quẩn lần lượt bị vô hiệu hóa, có khi vắng tiếng cả hai ngày không bắn được một trái.Thay vào đó, mức độ bắn phá của 122 và 130 lại tăng lên.
Trận chiến đấu trên đồi 31, trước hết, là trận chiến của các chiến sĩ Pháo binh nhảy dù thuộc pháo đội B Tiểu đoàn 3 Pháo. Phòng tuyến của chúng tôi rất gần những vị trí pháo, và cũng rất gần với Bộ chỉ huy Pháo đội, chỉ cách nhau một con đường nhỏ bao quanh vị trí, con đường gập gềnh cát bụi nối với bãi tiếp tế bằng những chuyến xe GMC tới lui chở đạn và thực phẩm. Chiếc xe đó giờ đã nằm im bên sườn đồi, mình lỗ chỗ vết đạn.
Thỉnh thoảng tôi vẫn chào anh khi tình cờ ngang qua hầm chỉ huy Pháo đội, Đại úy Nguyễn Văn Đương, Pháo đội trưởng, dáng người đương bệ, rám nắng phảng phất phong trần kiêu bạc.
– Cà phê mậy!
– Cảm ơn đại úy!
Tôi ngồi xuống bên chiếc thùng gỗ.
– Mất ông Bôn, tao cũng rầu thúi ruột, tụi bây đánh trận đó đẹp quá!
– Cũng nhờ Đại úy bắn quá “ác liệt”
Anh tự tay pha cho tôi ly cà phê bốc khói.
– Cà phê cứt chồn Khe Sanh đó!
– Sao Đại Úy có?
– Hốt, không biết cứt chồn hay cứt cọp, hồi còn ở ngoài khe Sanh thiếu gì thứ này!
Chúng tôi nghe hương cà phê thấm dần từng giọt, từng giọt mênh mông trải dài theo mù sương đồi núi. Anh không nói, nhưng trên những điều thuốc đốt rồi để đó, đã cháy dần những lo toan chiến sự, khi mà trên đồ bản, những vị trí quân ta mà Pháo đội phải trực tiếp yểm trợ liên tục lùi dần về căn cứ, và khả năng tác xạ của đơn vị ngày một tiêu hao không thay thế kịp, mới hôm qua đây, một khẩu đội lại trúng đạn, nâng khả năng bất khiển dụng lên ba, vậy là chỉ còn ba khẩu còn khả năng chiến đấu, trong khi nhu cầu yểm trợ cũng như trực xạ cận phòng ngày một cấp thiết.
Không kịp nhấp chút cà phê thơm ngọt đã phải băng vọt về vị trí khi tiếng pháo địch ầm ỳ bên vách núi, tôi lao vội xuống hầm chiến đấu nghe tiếng đạn xé gió rít lên dồn dập. Ở đây, hầm càng lớn, khả năng trúng đạn càng cao nên chúng tôi phân tán tối đa những vị trí chiến đấu, mỗi hầm chỉ vừa đủ cho một người, cách xa nhau chừng năm bảy mét, trong khả năng quan sát và yểm trợ hỗ tương; riêng hầm của tôi còn có Quá, binh nhất vừa thay thế Phi mang máy truyền tin, các vị trí đại liên có thêm một phụ xạ thủ. Suốt ngày gần như quanh quẩn bên hố chiến đấu, chia nhau thức, ngủ và chờ đợi, thấp thỏm đứng ngồi.
Sau hai ngày đột ngột ngưng pháo kích, địch đã di chuyển vị trí pháo của họ chếch về phương Nam, với khoảng đường trên dưới hai mươi cây số nếu ước lượng từ tâm điểm vị trí chúng tôi. Bạn hãy tưởng tượng một vòng cung có bán kính ít nhất cũng mười sáu cây số, là khoảng cách an toàn tối thiểu, để cho các vị trí pháo 130ly và 122ly nằm ngoài tầm tác xạ của 105ly và 155ly của chúng ta, là đã ước tính được khoảng cách mà họ phải di chuyển từ Tây Bắc luồn về Tây Nam căn cứ 31. Và điều này, có lẽ các bạn Pháo binh hiểu hơn chúng tôi về các nỗi khó khăn khi kéo các khẩu trọng pháo qua địa hình đồi núi, dù chỉ trên các trục đường đã được chuẩn bị sẵn. Thế nhưng địch đã làm được điều đó một cách nhanh chóng, chắc chắn không phải chỉ bằng nhân lực đơn giản của thời kỳ Điện Biên Phủ; và cũng không hiểu tại sao hệ thống không thám tối tân của đồng minh đã từng cao rao là không có một sinh vật nào có thể lọt qua tầm quan sát nếu họ muốn, lại không thể phát hiện và cung cấp cho Bộ Tư Lệnh cuộc hành quân những tin tức về sự xuất hiện xe bánh xích kéo pháo của địch quân? Cả ngọn đồi ngập trong âm thanh hỗn độn, chát chúa, đất đá oằn mình vỡ tung lên cuồn cuộn, họ thật hào phóng với chúng tôi khi bắn không cần hiệu chỉnh, từ vị trí mới, những khẩu trọng pháo đã tỏ ra khá hữu hiệu với tầm tác xạ không vượt qua những đỉnh núi chắn ngang mục tiêu.
Tiếng đạn rít dồn dập, biết rồi khổ lắm ông đại đội ơi, cho con cái ngóc đầu lên quan sát kỹ phía trước, ngóc lên hay ngóc xuống cũng chỉ trong phần không gian nhỏ nhoi của sự sống; nó bắn dài trải như thế này thì không biết cái khoảng sống mong manh đó của căn hầm dài một mét tám, ngang một mét rưỡi, sâu một mét rưỡi sẽ vỡ tung ra lúc nào; mà vỡ thật rồi, tôi lao ra khỏi hầm khi tiếng “bụp” khô khan của một trái delay hất tung căn hầm của Nam bên trái; moi lên, moi lên, nó bắn kệ cha nó, hai tay bươi móc như thằng điên, tôi mò được cái nón sắt của thằng Nam bầy nhầy, ươn ướt, chết mẹ! Hết cứu rồi, ông Sâm ơi, lôi nhẹ lên thôi, có khi nó chưa chết. Quả đạn công phá rơi ngay sau căn hầm, cách chừng ba mét, sức nổ xô dạt mọi thứ dồn cục vào nhau, vỡ vụn.
Thấy tổ Khinh Binh nhốn nháo, muốn bu lại cứu đồng đội, tôi la lớn:
– Dạt ra, về vị trí hết, chừng này đủ rồi!
Mặc kệ tôi nói gì thì nói, Muôn vẫn nhào lại.
– Để tôi phụ một tay. Ừ, thì phụ đi, nó đang bắn đó, coi chừng hết chùm.
Chúng tôi vừa nằm xuống tránh đạn, vừa nhỏm dậy tháo dỡ đất đá. Muôn lôi mấy bao cát để lộ một lưng áo lấm lem bụi đất, cẩn thận gỡ từng mảng công sự, và thấy Nam đang ngồi im bât động, mặt hướng ra phía trước, đầu gục xuống gối lên báng súng.
– Còn sống không?
– Hình như nó còn thở!
– Kêu y tá mau lên!
Chúng tôi đưa được Nam ra khỏi căn hầm đổ nát, và quả thật Nam vẫn còn thở thoi thóp, không một vết trầy trụa nào trên người ngoài vệt máu nhẹ ứa ra trên mép. Nam bị bất tỉnh do sức ép trái đạn nổ quá gần. Muôn xổ nho “Hắn thiệt phước như Đông Hải”, tôi giật mình nhìn lại bàn tay, không biết đã mò được cái gì bầy nhầy, ươn ướt trong nón sắt của Nam, không dám đưa lên ngửi, tôi lầm bầm, “đm cái thằng!” Hèn chi không thấy nón nhựa đâu hết, tôi thật chậm tiêu.
Đợt pháo kích chỉ chấm dứt khi hai phi tuần F4C xuất hiện trên bầu trời, và nhanh chóng tấn công vào vị trí đã được OV10 chỉ điểm bằng đạn khói. Lửa Napal bốc lên cuồn cuộn, và trên vòng loop của chiến đấu cơ, những vết đạn phòng không cũng đuổi theo bén gót, không biết tọa độ bị oanh kích có chính xác là vị trí pháo hay không, nhưng hình như địch cũng biết e dè khi có không quân lâm trận, nhờ thế chúng tôi được rảnh rang đôi chút để lo tải thương, tiếp tế.
Hạ Lào-Không vận hậu cần trong Chiến dịch Lam Sơn 719.
Việc tải thương, tiếp tế cũng là một vấn đề nam giải, thực sự thì tuyến phòng thủ đã quá mỏng, và càng mỏng hơn nữa, khi phải tung quân bảo vệ bãi tiếp tế bên ngoài căn cứ. Không lần nào không có thương vong vì súng cối địch, và ít nhất cũng đã có hai chiếc trực thăng vĩnh viễn nằm lại bãi đáp vì trúng đạn phòng không khi gần đến vị trí, và một phi hành đoàn đang còn kẹt lại. Rất tiếc tôi không nhớ rõ phiên hiệu của đơn vị Không Quân (VNAF) trực tiếp yểm trợ chúng tôi bằng các phi vụ trực thăng gan dạ, khi mà lưới lửa phòng không đã phục sẵn trên các đường tiếp cận nhằm mục đích khóa chặt nẻo vào từ mọi hướng, thì đường bay của các bạn quả thật là “một đi không trở lại”, đã bao nhiêu lần chúng tôi nhìn thấy những chiếc trực thăng đột ngột cất lên từ một lũng núi mù mù sương sớm, hoặc lướt nhanh trên ngọn cây qua một đỉnh rừng, hay bay nghi binh thật xa để rồi luồn theo khe núi, mang đến cho chúng tôi tất cả nhu cầu không thể thiếu của mặt trận… Đạn dược, thuốc men, quân trang quân dụng, thực phẩm, nước uống, thư từ, báo chí, và chút hơi hướm yên bình nơi hậu phương đất mẹ.
Chiều nay lại ra bãi, cũng kể nhủ một lần đi ủi, chúng tôi đã nhìn thấy địch quân điều quân lui tới, qua lại thấp thoáng dưới bóng cây bên những triền núi xa xa, và biết đâu chừng đã mon men gần căn cứ, tuy các Đại đội bạn ở bên ngoài vẫn chưa có phát hiện nào về sự xuất hiện của địch. Mọi việc vẫn phải làm thật nhanh và thận trọng, xuất phát, lục soát, rải quân… Công việc quá bình thường của một Trung đội tác chiến mà sao giờ này lại quá nặng nề. Mà không nặng nề làm sao được khi quân số tiêu hao ngày một trông thấy. Rời Sài Gòn tôi dẫn theo hai mươi sáu thanh niên, mặt mày tươi như trên đường đi học, rồi lại còn được bổ sung thêm hai chàng lục tỉnh mới cáu cạnh, và Nghĩa, một Chuẩn úy mới ra trường, vị chi là hai mươi chín mống. Tôi nói với Nghĩa khi anh chàng đến Trung đội trình diện theo đúng quân cách:
– Thôi bỏ đi ông! Ra trường dịp này kể như trúng lớn, lại còn đi theo tôi!
Nghĩa láu lỉnh:
– Trung úy truyền cho ít ngón, để sau cuộc hành quân này tôi đỡ lọng cọng.
Nghĩa, người Sài Gòn, nhà ở đâu miệt Khánh Hội, Hàm Tử, cũng có mẹ già và em gái, cũng mang cái hồn nhiên của tuổi trẻ vào mặt trận như ngày tôi mới ra trường. Hồi đó, tôi còn được may mắn học nghề với Trung úy Dũng tại ven đô, hành quân an nhàn quanh hãng bột ngọt An Phú Đông, Tân Thới Hiệp, Nhị Bình; sáng lai rai cà phê và pháo, chiều về còn cóc với ổi đưa cay. Có đâu như Nghĩa, giày trận còn bóng nếp quân trường đã được ném ngay vào cõi chiến trường dữ dội.Tôi đã không còn dịp bàn giao Trung đội cho Nghĩa như ngày nào Trung úy Dũng đã giao trách nhiệm cho tôi. Nghĩa đã hy sinh không lâu sau đó.
Chưa tới một tháng, Trung đội chỉ còn lại mười tám ngoe, kể cả tôi. Đã thêm hai cái chết đau đớn của Binh nhất Mão và tân binh Xuất cứ dai dẳng ám ảnh tôi.
Gom góp, nhặt nhạnh lại không đầy cái nón sắt, đó là xác Mão sau khi căn hầm của anh hứng gọn một trái công phá. Còn Xuất thì cứ trào ra những bụm cơm sấy trộn lẫn máu trong cơn hấp hối, máu và cơm, cơm và máu lẫn với những bọt khí ào theo vết thương vỡ banh lồng ngực, mảnh đạn như một lưỡi rìu phạt ngang người, khi anh ngồi bên miệng hầm nhìn bâng quơ những đỉnh núi, tay bốc từng bụm gạo sấy thẩy vào miệng.
Tôi cũng ngồi cách Xuất năm vị trí trong cùng một phiên gác chiều, và chỉ kịp la lên “Xuống hầm! Pháo kích!” nhưng không còn kịp nữa, có lẽ tiếng gạo sấy khô khan vỡ rao rào trong miệng đã làm Xuất không nghe được tiếng pháo địch rời nòng, viên đạn quá tầm rơi ngoài sườn đồi lại tai quái gởi ngược về một mảnh lớn nhất. Khi chúng tôi đến thì Xuất đã như thế, môi anh còn mấp máy điều gì, tôi đã cố cúi sát người để chỉ nghe thều thào hình như tiếng “Mẹ ơi”…và Xuất đi hẳn.
Số bị thương mỗi ngày gia tăng, Trung sĩ Biên đã nhe răng vàng vẫy tay chào chúng tôi, chống gậy cà thọt lên trực thăng tuần trước, có gì đâu. Đi vệ sinh, chạy về hầm không kịp, may mắn lắm mới bể mông, anh ta còn cười hề hề khi tôi lên thăm ở bệnh xá Tiểu đoàn… “Tui còn đem được đồ nghề về cho bà xã”…Giàn Hạ sĩ quan chỉ còn lại thượng sĩ Đàng và trung sĩ Yến, tôi kể như giảm cấp số làm Tiểu đội trưởng, chỉ huy một Tiểu đội Khinh binh và một tiểu đội hỏa lực. Mà nào phải chỉ Trung đội chúng tôi? Hai trung đội kia cũng lâm vào tình trạng tương tự, giật gấu vai cũng không đủ quân để trải kín tuyến phòng thủ vốn dĩ được thiết lập cho một Đại đội mạnh, đầy đủ quân số. Một tuyến dài như thế, lại phải duy trì ba vọng gác đêm, hai vọng gác ngày, chia đều chi mỗi người cũng ôm hơn năm tiếng mỗi ngày trực gác. Kể cả tôi cũng chia xẻ ba giờ đốc canh ca thứ nhứt, trong tình trạng căng thẳng kéo dài, mặt mày ai nấy hốc hác thấy rõ.
Mở nắp bi-đông nhắp dè xẻn một ngụm nước, nước, bây giờ cũng là thứ phải tiết kiệm tối đa khi phải tiếp tế bằng máy bay, mỗi Trung đội được bốn ống đạn 155ly dùng cho bốn ngày giữa hai kỳ tiếp tế bình thường, nhưng chu kỳ đó hiện đã giãn dài không tính được khi các chuyến bay ngày một trở nên mạo hiểm. Không đủ lực lượng để bảo vệ nguồn nước sâu dưới chân ngọn đồi bên kia, chúng tôi đành phải rút bỏ, tuần trước, nhân khi một đại đội bạn di hành qua bờ suối, chúng tôi đã trở lại lấy nước dự trữ cho gần một tháng (chứa trong các ống đạn 155 và thùng đạn đại liên). Số nước đó tuyệt đối không dùng đến.
Nhảy qua tần số đại đội để làm việc thẳng với tiểu đoàn theo lệnh, báo cáo mọi vị trí bên hai sườn đồi đã được rải xong quân bảo vệ, tôi dẫn Muôn và 4 chiến sĩ khác leo lên vị trí của Hạ sĩ nhất Chính, tổ tiền đồn này ở đây mười ngày chờ thay thế, mà hình như họ cũng không muốn thay thế khi cảm thấy ở chốn hẻo lánh này có vẻ an toàn hơn cứ điểm chính, ít nhất là cho đến bây giờ vẫn chưa có trái pháo nào lạc địa chỉ qua đây. Nay thì dù sao cũng phải hoán đổi, chưa biết hơn thiệt thế nào, nhưng trước hết phải bình đẳng trong cuộc chơi, tôi ngồi bên gốc cây chờ Chính dẫn Muôn bàn giao các vị trí phục kích tự động, cũng từ các vị trí này tuần trước, cả căn cứ đã phải một phen lên ruột tưởng như cuộc tấn công của địch đã thực sự bắt đầu…Khi đồng loạt 4 trái claymore nổ bùng dữ dội, kèm theo mìn chiếu sáng tại tuyến trước tổ tiền đồn. Chính thở hổn hển trên máy:
– Tụi nó chạy nghe rần rần, không biết bao nhiêu, xin tác xạ khẩn cấp tuyến tám.
– Có ngay cho anh! Phải giữ vũng vị trí! Nghe rõ thổi ba bùa!
– Phù! Phù ! Phù!
Bắn chát ì xèo một hồi không thấy động tĩnh gì, Chính im tiếng súng, tôi gọi:
– Sao ông?
– Để tôi ra lục soát coi.
– Chuyện đó để mai tính! Ba thức hai ngủ, cẩn thận tại chỗ.
Báo hại cả đơn vị chống mắt thức báo động, sáng ra Chính báo cáo:
– Đích thân cho người khiêng heo về.
– Heo gì cha?
– Heo rừng, mười bốn con lớn nhỏ.
Thì ra, nguyên một bầy heo rừng lang thang kiếm ăn, run rủi thế nào thì lọt ngay vào giữa hai ổ phục kích tự động và tầm sát hại rộng của bốn trái claymore, đã không để sót một chú nào.
Thượng sĩ Đàng không ăn thịt heo, anh ta rầu rầu:
– Điệu này xui lắm Trung úy ơi!
– Sao vậy?
– Tôi đi trăm trận, khi nào có thịt rừng là có thịt người!
– Trước sau gì tụi nó cũng đánh, mấy bữa này không có thịt rừng vẫn có thịt người mỗi ngày đó sao?
– Mười bốn con lận, lành ít dữ nhiều.
Kể từ hôm đó, ông càng trở nên lầm lì ít nói và cáu gắt với đám trẻ bỡn cợt chung quanh.
Dặn dò Muôn đôi điều bình thường, tôi và toán tiền đồn cũ quay xuống bãi tiếp tế khi tiếng trực thăng văng vẳng xa xa; mọi bữa khi chúng tôi bắt đầu xuất phát là địch đã phát hiện và khởi sự pháo kích vào bãi, nay trái gió trở trời thế nào mà có đến hai phi tuần Cobra bao vùng, lại thêm mấy chiếc F4 đang quần thảo phía Tây Nam căn cứ với pháo binh và phòng không địch, nên hai chiếc trực thăng tiếp tế đáp yên lành xuống bãi nhanh chóng chuyển giao hàng tiếp tế, đón nhận thương binh, tử sĩ và phi hành đoàn của chiếc lâm nạn mươi ngày trước. Tôi vẫy tay làm người đưa tiễn, tiễn cả người sống và tiễn người chết, đến mai này biết có ai tiễn biệt chúng tôi.
Giữ nguyên đội hình bảo vệ bãi cho đến khi bộ phận trách nhiệm của tiểu đoàn chuyển xong mọi thứ vào căn cứ thì được lịnh lui quân, và tôi lai nhận thư Phượng.
Buổi tối lan dần lên cứ điểm thoáng hơi sương lành lạnh, tôi dựa lưng vào thành hầm xòe hai tay nhìn mông lung bóng tối; những ngón tay thô nhám khi cầm súng chợt biết nhẹ nhàng với phong thư thoang thoảng nắng sân trường; tôi thật vô duyên theo những điều huyễn hoặc, hạnh phúc, yên vui, và cả một ngày mai thật dài, tràn đầy sức sống, trong khi tất cả dự định có thể bọt bèo trong chốc lát; có thể ngay bây giờ đây vỡ vụn ra trăm mảnh theo một trái pháo vô tình. Không biết trong muôn một, sẽ có không? Hạt bụi nào khẽ bay về rơi nhẹ xót mắt em.
Tôi soi ngọn đèn pin lò dò từng chữ và chợt buồn rầu nhận ra, em vẫn không hiểu gì về tôi trong khi mỏi mòn một nhịp cầu Ô Thước. Lá thư thật dài nhưng chẳng có gì để đọc; kể cho tôi làm gì những ồn ào phố thị; kể cho tôi làm gì những khúc luân vũ đã làm mắt em say. Sài Gòn của em vẫn thế và giảng đường của em vẫn thế. Em không nói bên chiếc ghế tôi ngồi đã có ai quấn quýt? Nhưng tôi biết đó không phải là thế giới của tôi, và chiến tranh dường như chưa bao giờ lai vãng dưới những tàng cây bốn mùa dim mát. Không biết những tin tức từ mặt trận có làm sân trường đại học bớt tươi màu áo, mà sao những vô tình của em và bạn bè đối với cuộc chiến càng làm tôi xa cách vô cùng. Tôi không định viết thư cho Phượng, biết có còn trở về để thêm chi nhiều vương vấn. Những giọt nước mắt chính danh đã lan tràn trên đất nước, còn khơi thêm làm gì chút sầu muộn người dưng?
Vòng hai tay ra sau ót, gối đầu lên ba-lô mỏi mệt muốn vùi tất cả vào quên lãng, ngày tháng cứ qua theo tầm bay lửa đạn, cả trăm trái pháo mỗi ngày băm nát ngọn đồi vô danh bỗng chốc trở thành cõi chết; cái chết cứ lần hồi gậm nhấm từ Đông qua Tây, từ Nam lên Bắc, từ những hầm hố kiên cố ở trung tâm cứ điểm đến dãy chiến hào chỗ sâu chỗ cạn bao bọc ngoại vi, tất cả bỗng trở nên bình đẳng trước sức công phá dữ dội của đạn pháo, mặt trận bỗng nhiên nghiêng hẳn về một phía, chúng tôi ngồi đây, ngày và đêm thúc thủ trước tiếng súng địch. Hàng ngũ cứ thưa dần, thà rằng cứ lao thẳng vào mũi súng, thà rằng đối mặt với quân thù, thà rằng chết trong tiếng hò reo xung trận, có đâu cứ len lỏi mãi dưới hầm hào mà cũng chỉ đợi chờ cái chết.
Tôi không dám nói thay những người lính, nhưng tôi hiểu họ, tôi hiểu nỗi lo âu căng thẳng mà chúng tôi cùng chia sẽ, như anh chàng Ngọt đó, giữa lúc đạn pháo ầm ỳ trải lên trận tuyến, bỗng nhiên hắn ta nhảy vọt lên nóc hầm tuột phăng quần chỉa cu ra phía trước, miệng la lớn một hơi dài như tiếng hú của một con thú bị thương… “con c…” Yến phải liều mạng nhảy lên cặp cổ lôi xuống. Chúng tôi gần như ai cũng đang “chạm giây” như thế và có lẽ sự nổ bùng của chiến trận là liều thuốc cuối cùng để giải thoát, sự giải thoát tận cùng trên hai nghĩa trắng đen trần trụi.
Chúng tôi đều biết được lực lượng của địch không còn xa căn cứ, và có lẽ họ đang ở lại tuyến xuất phát để chờ đợi giờ “G”, khi mà mọi tần số trên máy truyền tin của chúng tôi đều tràn ngập ngôn ngữ xa lạ của quân thù, và thế là lại phải chửi nhau trên máy để dành sóng liên lạc (việc bảo mật đã trở nên thừa thải).
– Đi chỗ khác chơi. Tụi tao ra Hà nội nhốt cổ mày bây giờ!
– Chúng mày chờ đó, ông vào Sài gòn đấy các con ạ.
– Ê tụi mày hát hò điệu gì nghe giống tàu phù quá.
– Mời các bạn nghe văn công nhé.
Thằng hiệu thính viên bên kia lấy harmonica ra thổi ò e ò e; Quá không có đồ nghề tương xứng nổi quạu:
– Thổi như cục cứt, mày dám chửi Hồ Chí Minh không? Mày nghe tao dám đả đảo Nguyễn Văn Thiệu nè.
– Mày dám đéo mẹ Liên Xô Trung Quốc vĩ đại của mày không? Mày nghe tao đm thằng Mỹ nè, Quá làm “Full auto” một hơi, hiệu thính viên Bắc Việt (chắc chắn là cấp chỉ huy) nghe chừng phạm húy im thin thít.
Mỗi lần chúng tôi liên lạc với nhau là tụi hắn lại chen vô phá đám… “mời các bạn Quân đội Sài Gòn tham gia chống Mỹ cứu nước” …cái giọng tuyên truyền rẻ tiền cứ dẻo quẹo; không có thì giờ đôi co, chúng tôi đồng loạt bẻ cổ gà qua chỗ khác nói được năm ba câu lại nghe thằng khác xía vào mời nghe văn công.
Cứ thế, ngày nào cũng nói qua nói lại, nó còn hỏi chúng tôi ăn pháo có ngon không, nó hỏi cái này thì Quá đắng họng, tắt máy.
Trước mặt chúng tôi có một hẻm núi, từ trên đồi nhìn xuống chỉ nhận biết con người nhờ sự di động, nếu anh ta đứng yên thì không thể nhìn thấy; hẻm núi có một khoảng trống giữa hai lùm cây rậm rạp, thế là địch chơi trò cân não. Ban đêm là lúc chúng tôi không thể quan sát. Ban ngày có mặt trời lên là có người băng qua khoảng trống đó; mặc kệ không biết bao nhiêu bom đạn được điều chỉnh chính xác xuống mục tiêu, dứt tiếng súng là có người băng qua.
Dòng ngưới cứ tưởng như bất tận; rồi đêm đêm, từng vệt đèn và tiếng động ầm ỳ của chiến xa dội lên căn cứ, dội lên mỗi người lính nỗi lo âu thật sự về khả năng chống chiến xa của đơn vị, khi mà những trái M72 chưa một lần chứng minh hiệu quả trước vỏ thép xe tăng, và khi mà cả căn cứ đã trần trụi, ngon lành như một đùi thịt nướng sau các trận pháo kích liên tục của đối phương.
Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, loại M72 trang bị cho chúng tôi là loại cũ, nhiệt độ phát ra từ đầu nổ của hỏa tiễn chỉ đủ sức để công phá hầm hố, công sự, không đủ sức xuyên phá vỏ thép xe tăng. Loại này khi kéo ra ở vị thế kích hỏa, sẽ thấy sợi dây lên cò nằm suốt theo nòng súng, khác với loại mới được trang bị từ sau cuộc hành quân này, mà nhiệt độ công phá hình như đã được nâng lên hai lần hơn.
Chúng tôi không có lấy một chướng ngại vật, không có lấy một hàng rào kẽm gai, hay một trái mìn chống chiến xa để an lòng phần nào lực lượng phòng thủ.Và chúng tôi cũng chẳng phải chờ đợi lâu hơn nữa. Cuộc tấn công thật sự đã bùng lên trước khi ngày chưa đứng bóng.
Còn Tiếp