Phan Hội Yên
Sau
khi tái tiếp tế đạn được thu dọn xong chiến trường khoảng 10 giờ sáng
hôm đó, ngọn đồi trước mặt đang mù tung bụi cát dưới hàng loạt đạn pháo
105 được bắn đi từ căn cứ 31. Mục tiêu số 2 vẫn đang là một thách thức
bí ẩn.
(Tiếp theo p1)
Đại đội cho biết, thằng 32 “Hông Thiếp”,
đang tiếp cận phía sau và sẵn sàng tăng viện khi chúng tôi hỏi thăm
Thái Thanh, mục tiêu số 3. Ý thức được tầm quan trọng của tình hình,
cũng như dự đoán chắc chắn, sẽ gặp lực lượng mạnh của địch, Đại đội yêu
cầu bốn phi tuần phản lực oanh tạc mục tiêu trước khi tiếp cận, cũng như
phải được cover Cobra trên lộ trình. Tiếc thay! Những yêu cầu hợp lý đó
đã không được thỏa mãn. Từ Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn, Sĩ quan hành quân
“Hồng Vân” cho biết “họ” khước từ yểm trợ với lý do mục tiêu bị sương mù
che phủ. Sương mù che phủ? Tôi nhìn lên bầu trời trong vắt không một
bóng mây, lòng phân vân những điều không dám nghĩ tới.
Cuối cùng thì cũng phải lên đường theo
quân lệnh và cũng được cover bằng hai chiếc trực thăng võ trang VNAF,
cám ơn các bạn, dù sao chúng ta cũng cùng chung chiến tuyến, cùng chung
một mục đích để chiến đấu, đó là sự yên vui của quê nhà, khi lòng nhân
hậu của con người chưa thui chột giữa can qua.
Từ điểm chạm địch buổi sáng nhìn đến số 3
khoảng ba trăm mét ngắn ngủi, bằng mắt thường, ngọn đồi nằm im ắng
trong nắng sớm phất phơ từng chòm lau trắng bạc, quả thật, không có dấu
hiệu nào chứng tỏ họ đang chờ chúng tôi ở đó. Chiếc OV10 nghiêng ngó
lòng vòng trên độ cao an toàn, không thấy gì, bắn hú họa một tràng đại
liên rồi dông thẳng. Tiếng người Sĩ quan sát Việt Nam trên máy bay
thoáng chút phẫn uất ở tần số Đại đội:
– Nó bay cao quá, tôi không thấy gì được cả, xin các bạn cẩn thận,
không thấy hầm hồ gì… nhưng có nhiều đường mòn mỏi rạp cỏ tranh lưng
chừng đồi hướng đối diện các bạn. Chúc may mắn! Hết.
Trước một kẻ địch mà kỹ thuật ngụy trang
là tiêu chuẩn số một trên quan điểm chiến thuật của họ, thì việc truy
tìm vị tí từ những phi vụ quan sát chiếu lệ trên loại máy bay trinh sát
võ trang OV10 quả là điều khó khăn, huống chi lại bay quá cao, quá nhanh
như ông bạn đồng minh vừa rồi thì hết biết. Các quan sát viên, dù được
huấn luyện đầy, dày dạn trận mạc, khi tăng phái cho đồng minh trong
những điều kiện như thế, cũng không giúp gì hơn cho đồng đội.
Đợt pháo kích theo lời yêu cầu vừa chấm
dứt, hai chiếc HU1A nối đuôi bay quành trở lại, phối hợp nhau gởi xuống
mục tiêu những quả rocket dài ngoằn xé gió. Chúng tôi biết mình phải làm
gì sau đợt không kích đó.Tôi đọc thấy thoáng âu lo trên khuôn mặt từng
chiến sĩ. Kể cả tôi, cũng không thể trốn tránh thực tại hết sức căng
thẳng của trận chiến. Vừa vượt qua cái chết buổi sáng đã phân vân với số
mệnh buổi trưa. Ai đã đi qua chiến tranh, đã đánh chừng mươi trận mà
vẫn còn sống để chờ đợi trận đánh thứ mười một chưa biết mất còn, mới
chia xẻ được cái cảm giác hồi hộp, nặng nề của người lính trước trận
đánh. Huống chi quanh đây, không kể hai tân binh mới ra trận lần đầu
chưa biết hòn tên mũi đạn, từ quan tới lính, người nào cũng dự vài ba
chục trận, vài ba chục lần quẳng cái bản chất thằng người tham sanh úy
tử xuống đất, ôm súng lao lên theo tiếng thét xung phong của đồng đội.
Có muốn hèn cũng không thể hèn được, có muốn dừng lại cũng không thể
dừng lại được. Cái cảm giác xung trận nó vô cùng kỳ lạ, nó cuốn hút
người ta lao vào bất kể tới đâu…Nó thấy ta chưa chắc đã dám bắn, bắn
chưa chắc đã trúng, trúng chưa chắc đã bị thương, bị thương chưa chắc đã
chết, và chết chưa chắc đã …chôn. Cứ phỉnh phờ cái lo lắng, cứ giả vờ
hồn nhiên cười cợt, mà sao trong những đôi mắt kia chợt tối nỗi bâng
khuâng. Có phải Biên đang nghĩ đến đàn con quây quần trong ánh đèn vàng
vọt, căn nhà nhỏ trong trong trại gia binh có ai đang thao thức nguyện
cầu? Có phải Muôn đang nhớ về người tình chơn chất, lời hẹn thề chưa
ngút một tuần trăng? Có phải Chính đang rối bời mẹ già tóc bạc, phận làm
con biền biệt chốn biên cương? Ô kìa ông Đàng! Mười hai năm quân ngũ đã
hằn lên vết tích, tuổi thanh xuân qua trên khổ lụy quê nhà có làm anh
ít nói, hay đang lặng im trên chính về nỗi ước mơ còn xa vời vợi, mảnh
vườn quê chim hót nắng mai. Và Sĩ, Thông, và Kiều, và…hai mươi sáu cái
nón sắt rằn ri màu lá, che kín hai mươi sáu cõi riêng tư. Đã điên đâu mà
vui mừng hăng hái, có phải là đồ tể đâu mà say máu bắn giết, chẳng qua,
họ đã dấy động can qua thì chúng tôi phải chiến đấu để tự vệ, để dành
cái quyền sống làm người theo cách đã chọn lựa.
Chúng tôi hiểu rằng, đằng sau chốt tiền
tiêu với chừng đó hỏa lực, vừa vượt qua buổi sáng, không thể là một đơn
vị nhỏ của địch, và lại càng không phải của một căn cứ hậu cần dể uy
hiếp. Trên các xác chết để lại, quân phục kaki Nam Định, không có quân
hàm, quân hiệu, cũng không có giấy tờ gì khả dĩ giúp chúng tôi đọc được
phiên hiệu đơn vị, tuy rằng điều đó không thật sự cần thiết cho trận
đánh, nhưng dù sao, cũng muốn biết mình đang đánh nhau với thằng nào,
quen hay lạ, đòn thế và nội lực ra sao để còn tính bề xoay sở.
Và cũng thật khó khăn khi phải mô tả địa
thế, trên bản đồ vị trí phỏng đoán có địch là những vòng cao độ hình
móng ngựa, một ngọn đồi cách cung mà hướng tiếp cận duy nhất lại nằm gọn
giữa hai cánh tay đáng ngại đó. Yếu tố bất ngờ cũng không còn khi đã
bộc lộ hỏa lực. Trên mấy ngọn núi quanh quẩn đâu đây, chắc chắn những
ống viễn kính của cấp chỉ huy cao hơn đơn vị địch tại trận tuyến cũng đã
nhìn thấy chúng tôi mồn một. Không biết cấp chỉ huy cao hơn của chúng
tôi có nhìn thấy họ, để cân nhắc từng quân cờ hay chỉ thúc quân vô tội
vạ trên làn sóng vô tuyến…Tiến lên! Tiến lên! Với bất cứ giá nào.
Dĩ nhiên, chúng tôi phải tiến chiếm mục tiêu.Nhưng không phải với bất cứ giá nào như thượng lịnh. Cấp Đại đội luôn luôn cân nhắc cái giá phải trả cho từng giờ, từng phút, cuộc chiến đâu phải chỉ ngày một ngày hai, và mục tiêu đâu chỉ là một, hai, ba bốn… Cần dè xẻn từng giọt máu phải đổ, để mỗi lần xuất phát khỏi nhìn trước ngó sau, đếm lui đếm tới, buồn bã tiếc nuối những mũi nhọn đã mất đi, như một cơ thể đang cường tráng bỗng hụt hẫng một phần sinh lực.
Trên quan điểm đó, Đại đội quyết định gởi 3 toán trinh sát thăm dò hỏa lực địch, mỗi Trung đội phụ trách một toán, gồm ba chiến sĩ, mang theo PRC6 (chúng thường gọi máy truyền tin loại này là “Bà già trầu”, mang theo gánh nặng, lại không xử dụng được bao nhiêu, thường thường nghe ngoài rõ hơn trong). Đụng địch ở đâu, nằm lại vị trí đó, các tiểu đội đại liên M60 sẵn sàng yểm trợ, bắn che cho trinh sát.
Dĩ nhiên, chúng tôi phải tiến chiếm mục tiêu.Nhưng không phải với bất cứ giá nào như thượng lịnh. Cấp Đại đội luôn luôn cân nhắc cái giá phải trả cho từng giờ, từng phút, cuộc chiến đâu phải chỉ ngày một ngày hai, và mục tiêu đâu chỉ là một, hai, ba bốn… Cần dè xẻn từng giọt máu phải đổ, để mỗi lần xuất phát khỏi nhìn trước ngó sau, đếm lui đếm tới, buồn bã tiếc nuối những mũi nhọn đã mất đi, như một cơ thể đang cường tráng bỗng hụt hẫng một phần sinh lực.
Trên quan điểm đó, Đại đội quyết định gởi 3 toán trinh sát thăm dò hỏa lực địch, mỗi Trung đội phụ trách một toán, gồm ba chiến sĩ, mang theo PRC6 (chúng thường gọi máy truyền tin loại này là “Bà già trầu”, mang theo gánh nặng, lại không xử dụng được bao nhiêu, thường thường nghe ngoài rõ hơn trong). Đụng địch ở đâu, nằm lại vị trí đó, các tiểu đội đại liên M60 sẵn sàng yểm trợ, bắn che cho trinh sát.
Chính, Thông, Sĩ lo phần việc đó của
Trung đội, họ phải theo xuống triền đồi rồi ngóc lên ở vòng cung bên
trái, yểm trợ tích cực cho toán 3, nếu cần, tung hỏa lực nghi binh để
toán này tiến lên được càng cao càng tốt.
Ý đồ của Đại đội như thế. Nhưng đối
phương đã kịp thời phản ứng. Ngay khi các toán trinh sát xuất phát chừng
một trăm mét, trận địa đang im ắng bỗng rộ lên hàng loạt tiếng súng cối
và tiếng đạn đi xé gió, khoảng năm hoặc sáu khẩu 82 ly của địch xa về
hướng Tây, tác xạ tập trung vào vị trí đại đội, dù không chính xác cho
lắm, nhưng pháo kích kiểu vãi đậu như thế này, quả thật cũng làm chúng
tôi lúng túng. Phía trước mặt, hỏa lực bắn thẳng của họ cũng bắt đầu lên
tiếng, hòng chặn đứng mũi tiền kích đang cố gắng bám vị trí.
Trong khi chúng tôi chật vật vì súng cối
địch, thì vị trí của họ cũng tả tơi dưới hàng loạt đạn pháo của B3 từ
đồi 31 và từ Pháo đội C3 (CCHL 30…) trong tầm hiệu quả, đang bắn yểm
trợ.
– Lỡ rồi! Chơi luôn Một Hai Ba!
– Một nhận!– Hai nhận!
– Ba nhận!
– Tụi nó ở dưới khe suối cạn và đỉnh đồi bên kia!
– Chờ thằng Phở bắc nấu xong tô nào chơi tô đó, Phú Bổn lên với Phú Ông, Một và Hai theo luôn trái phải!
– Hai nhận!
Biên đã bắt tay được với Chính, Thông,
Sỹ tôi vắn tắt lịnh tấn công sau đợt pháo chuyển làn tác xạ, cần phải
nhanh chóng giải quyết trận địa nếu không muốn làm bia cho địch pháo
kích.
Đúng lúc những loạt đại bác dồn lên sườn
đồi bên kia, chúng tôi đánh ép xuống thung lũng với nòng súng cắm lưỡi
lê sẵn sàng cận chiến.Từ triền dốc thoai thoải, Biên và Chính phối hợp
nhau dẫn đồng đội tiến lên từng điểm ẩn nấp dưới làn đạn địch; Thông
băng thật nhanh lên phía trước, bắn ghìm sát mặt đất vừa dứt một băng
đạn lá đã tấp vào được một gốc cây ven bìa suối, ống quần rách toạc vì
vướng gai buổi sáng chưa kịp thay, lòng thong miếng vải phất lên phất
xuống không đủ che cái mông ốm nhách, xám xịt; anh chàng quay lại toét
miệng định cười, đã vội nằm hụp xuống, tay giữ nón sắt, co gọn người
tránh làn đạn vuốt cỏ cây ngã rạp bên cạnh; anh rút chốt trái lựu đạn
ném về phía trước, bắn rẽ quạt cho Chính, Sỹ và Tiểu đội Khinh binh tiến
lên hàng ngang, bám được bìa rừng là nắm chắc tám mươi phần trăm chiến
thắng, là hạn chế tối đa thương vong. Và địch cũng hiểu như vậy nên họ
tổ chức phản kích dữ dội, liệu thế đơn vị chốt tại bờ suối không chống
đỡ nỗi, khoảng chừng một Trung Đội địch từ trên đỉnh đồi tràn xuống cứu
viện, quyết không cho chúng tôi vượt qua.
Đến đây tôi chợt hiểu, chúng tôi đã được
chỉ huy và theo dõi chu đáo từ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, Lữ Đoàn, khi cánh
quân địch nhớn nhác tràn xuống chưa tới lưng chừng đồi đã phải khựng lại
rồi tan tác dưới từng loạt pháo nổ chụp thần sầu của B3. Từng mảnh
người tung lên rồi đổ gục. Ha ha chưa biết ai chơi “Công đồn đã viện”
thiện nghệ hơn ai đấy nghe ông bạn. Liêu Thăng, Mộc Thạnh đã bị chém đầu
thì Vương Thông còn hơi sức đâu mà đấm đá. Hàng ngũ địch hoảng loạn,
hỏa lực của họ tức khắc rối bời không che phủ nhau được như trước. Đúng
lúc đó, Đại đội phát lệnh xung phong toàn đơn vị.
– Xung phong!
Tiếng thét rền vang vách núi, đoàn quân
băng băng trên triền dốc lao xuống, vượt qua lựa đạn, vượt lên chông gai
xông tới, tiếng quân reo át tiếng đạn thù. Xung phong! Xung phong, đạn
xủi mặt đất, đạn xuyên tàng lá, đạn nổ bùng lửa đỏ, đan veo véo bên tai,
người trước ngã người sau xông tới, khản cổ theo tiếng reo đồng đội,
tim đập muốn vỡ tung lồng ngực. Hây Sỹ, sao nằm đó? Hây Kiều! Sao nằm
đó? Tụi nó chết rồi! Hây! Phi? Bị thương rồi hả? Đưa máy đây! Xung phong
xung phong. Tôi quàng vội chiếc máy truyền tin, dặn Phi nằm đó, Trung
đội 4 sẽ lên kéo về. Hai nghe Hai nghe! Lên luôn nhận năm, được 3 hầm có
cả cối! Nằm xuống Trung Úy! Chính húc luôn cái nón sắt vào mặt xô tôi
ngã rạp đúng lúc làn đạn cắt lá rụng tả tơi trước mặt, không hề gì, cái
hầm này nằm dưới đám rễ cây, nãy giờ chơi đủ thứ không suy xuyển.
– Á hà! Nó bắn nữa đó, thằng này kẹt chấu lên không được xuống không được coi bộ liều mạng.
– Hai đây Phú Bổn!– Hai nghe!
– Sao hai?
– Còn một thằng chưa nuốt nổi.
– Nói con cái đừng chơi như thằng Chí. Khỏi bắt tù binh nghe chưa!
– Nhận năm.
– Biên! Biên! Kêu ông già thẩy lỗ.
“Ông già thẩy lỗ” là biệt danh của Thượng sĩ Đàng, cái tài bắn bun (bowl) trăm phát trăm trúng của ông “Đã biến đơn vị vô địch thủ, hắc diện Thượng sĩ”,
cả Tiểu đoàn không ai địch nổi. Nghề chơi đôi khi cũng hữu ích cho cuộc
sống, nên khi nào ông cũng thủ sẵn cho riêng mình cả chục trái M26 loại
cũ, loại này tin tưởng hơn, nhảy mỏ vịt rồi ít nhất cũng ba mươi giây
mới nổ, đủ thời gian cho mình nhắm, không nổ bất tử như thằng tròn M67,
có bữa tan xác.
– Ông thấy cái miệng hầm không?– Đâu? Đâu?
– Dụ cho nó bắn đi Muôn!
– Đó đó nó bắn đó! khỏi dụ! hai đứa lận.
– Bắn che cho tôi đi!
– Có ngay!
Bốn năm tay súng cùng châu về một phía
bắn quyết liệt, Đàng im lìm sau một gốc cây, tay nắm chắc trái tạc đạn
đã rút chốt vẻ mặt căng thẳng.
– Trúng!
Mỏ vịt bật đánh tách một tiếng trước khi
nhẹ nhàng rời khỏi tay khum num vuốt nhẹ, rồi khẽ kéo giật lùi như vừa
đủ điều khiển một sợi giây vô hình dẫn tới mục tiêu, nhuần nhuyễn, chính
xác như đang ném viên bun trong sân chơi Tiểu đoàn.
Ầm…
Chỉ chờ có thể, sự phối hợp chiến thuật
nhuần nhuyễn của các chiến binh dàn dạy trận mạc đã gần như bài bản của
một đội bóng chuyên nghiệp, mà các cầu thủ đã hiểu rõ ý nhau, tin tưởng
vào khả năng giao bóng chính xác của đồng đội. Trong nháng lửa vừa dứt,
đã thấy Thông và Muôn sừng sững trên miệng hầm toang hoác, súng trên tay
hai người rung lên từng hồi chớp giật. Vậy thôi, chiến tranh không còn
chỗ cho sự khoan nhượng khi mà giọt máu của Chí còn nóng hổi trên trận
địa, không còn thời gian để lưỡng lự khi cái chết và sự sống gần nhau
trong gang tấc. Thêm Sỹ và Kiều, trong một ngày mất luôn 3 mạng người
không thể thay thế, không thể so sánh khi đã cùng nhau miệt mài trên
những nẻo đường đất nước. Các sĩ quan ở Tổng cục chiến tranh chính trị
và Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu có thể xoa tay hài lòng trước sự chênh lệch
về tỷ số thương vong của hai phía, đếm xác địch và ta để thống kê chiến
thắng.
Vâng, mười hai xác địch tại trận địa,
vắt vẻo trên miệng hầm trong một tuyệt vọng thoát thân, chôn vùi trong
hố chiến đấu bị bắn sập trong cố gắng kháng cự, tan xác dưới hố đạn pháo
binh…So với hai Chiến sĩ ta tử trận. Tỷ lệ chênh lệch lớn lao đó cũng
không thể xoa dịu nỗi đớn đau của người lính bên xác đồng đội. Bên những
khuôn mặt mới đây còn nói nói cười cười, còn chia nhau mẩu thuốc quân
tiếp vụ cong queo trong túi áo…hay thậm chí mới đây còn…đm thằng này
thằng nọ.
Riêng với Kiều, tôi đã mất đi không
những một chiến sĩ đôn hậu, thật thà, tháo vát mà còn mất đi mối tình
thân họ mạc. Kiều cùng quê với tôi, khi tiếp nhận trung đội từ Trung úy
Dũng, tôi nhận luôn sự ký thác về người lính nhỏ tuổi nhất đơn vị của
anh.
– Nó nhỏ quá, mới mười sáu tuổi, khai gian mười tám, trốn nhà đi lính, mầy lo được gì cho nó thì giúp.
– Lo!
Chuẩn úy Trung đội trưởng như tôi thì lo
được gì ngoài việc bố trí quanh quẩn trong trung đội, thôi thì ở với
tôi, tôi phong cho chức phụ tá Truyền tin Trung đội, một chức vụ không
có trong bảng cấp số Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chia xẻ với nhau mang
vác, ngoài súng đạn cá nhân còn có gạo sấy, lương khô, pin dự phòng cho
PRC25, theo ông Sâm (trung đội phó cũ) ở đoạn hậu, được đâu chừng hai
cuộc hành quân, qua lần hành quân thứ ba anh chàng ngập ngừng nói với
tôi…“Chuẩn úy cho tui ra ngoài, tụi nó nói tui làm tà lọt cho Chuẩn úy chứ không phải phụ tá Truyền tin.”
– Trời đất! Cái thằng Bật mã Ôn! Làm gì có vụ tà lọt trong này?
– Tôi biết đây là trò trêu chọc của đám
lính cũ dành cho anh chàng ngây thơ mặt mụn; tà lọt nỗi gì khi tôi cũng
phải một ba lô đầy nhóc, lỉnh kỉnh đủ thứ, súng tôi cũng dài như súng
hắn, tôi cũng phải cong đít đào hầm như hắn, ăn tôi cùng ăn với hắn, ngủ
hắn còn ngáy to hơn tôi…
Tôi làm mặt giận, mà giận thiệt! Khả năng tôi chỉ có chừng đó, hắn khước từ coi như tôi cụt vốn.– Ưng ra thì ra, nói ông Sâm cho người bàn giao đồ nghề rồi ra ở với Trung sĩ Yến!
– Chuẩn úy cho tui đi Khinh Binh!
– Nhiều chuyện, về tổ đại liên với ông Yến đi đã.
Kiều về tiểu đội hỏa lực, với sức vóc
bậm trợn nên được cho thủ cây M60 làm xạ thủ chính, mối thân tình giữa
chúng tôi chẳng có gì sứt mẻ. Những lần về hậu cứ, ai đi đâu thì đi,
Kiều cứ quanh quẩn trong doanh trại, cơm gạo tạ cá mắm chuồng mà sao mỗi
ngày một cao lớn.
Tôi giở poncho nhìn mặt Kiều và Sỹ lần
cuối, máu người chết trận sũng thấm màu áo lính; hai người lãnh nguyên
mấy mảnh cối 82 nổ trên tán cây, chụp xuống khẩu đại liên đang mải mê
nhả đạn.
Địch vẫn pháo kích, không có dấu hiệu gì
chứng tỏ họ từ bỏ trận địa sau khi đã thua đậm hai trận, với chừng đó
tổn thất mà vẫn giữ ý định bám chốt, thì rõ ràng quân số họ phải nhiều
hơn một Đại hội. Hai vị trí quan trọng, bị mất trong một ngày, coi như
vòng phòng thủ ngoại vi của đơn vị địch trên đỉnh đồi đã bị nhổ sạch,
(nếu họ có ý định phòng thủ), những hầm hố còn tươi gỗ mới, chứng tỏ họ
cũng vừa chân ướt chân ráo tới đây, và mục tiêu thì đã quá rõ rệt, khi
bố trí với mức độ vượt cấp số bích kích pháo 82 ly trong hầm hữu hiệu
đến căn cứ hỏa lực 31.
Vâng, chúng tôi đang công phá mắc xích
đầu tiên của một sợi giây đang dần dần hình thành chung quanh ngọn đồi
chiến lược, mà trận chiến đấu đẫm máu sau này, cũng do chính đơn vị tôi
phòng thủ, trong cái phủi tay của lời hứa không yểm, trong thế chênh
lệch quá cao về quân số, hỏa lực. Mỉa mai thay, ưu thế đó lại thuộc về
phía địch. Trong cái xoa tay hí hửng của “Bạn” và thù, trong cái đau đớn
của vị Tư Lệnh Sư đoàn, khi giọng nói ông đi vào tận tần số Trung đội,
chia xẻ với người Trung đội trưởng vô danh, với người chiến sĩ khinh
binh tiểu tốt những gian nguy đang có, bất lực nhìn con cái đã tăng phái
vào tuyệt địa, tước mất cây gậy chỉ huy đầy hiệu lực trong tay ông.
Thân làm Tướng, thành hay bại còn do thời do thế, nhưng chừng mực nào
đó, để lại trong lòng thuộc cấp chút gần gủi, ngưỡng mộ, âu cũng là lưu
chút lòng son với sử xanh.
Tất cả thương binh, tử sĩ đã được Trung
đội 4 chuyển về phía sau để cấp cứu và chờ tải thương. Phi bị một viên
đạn xuyên đùi trái, tôi chỉ biết khi cái ống liên hợp tuột khỏi tay tôi,
và Phi ngã quỵ. Thượng sĩ Sâm đưa Quá lên mang máy sau khi đã hỏi ý
kiến tôi. Ai cũng được, chẳng có chỗ nào an toàn, trong cuộc chiến ác
liệt này.
Chúng tôi phải bố trí lại hỏa lực khi
cây đại liên của Kiều đã bị hỏng chưa kịp thay thế. Trung đội 1 không có
thương vong, Trung đội 3 lại dính thêm một chết, hai bị thương, vị chi
từ sáng tới giờ, hắn ba, tôi ba, đổi lại trên hai mươi xác địch với từng
đó súng ống, chưa kể súng cộng đồng. Nếu cách đây một, hai năm, với
thành tích đó có thể khao quân ân thưởng, rộ thêm vòng hoa chiến thắng.
Huân chương, huy chương trĩu nặng trên hiệu kỳ đơn vị. Thì hiện nay
cường độ chiến cuộc đã trở nên ác liệt, hiếm có cuộc hành quân nào chỉ
đơn độc một Lữ đoàn tham chiến; địch cũng như ta, tăng cường hết khả
năng có thể có vào mỗi một chiến trường, và phiên hiệu mỗi bên ít nhất
cũng là những Sư đoàn phối thuộc, thì với những vị trí vô danh vừa chiếm
được, chỉ là cuộc trạm trán ngắn ngủi giữa những đơn vị tiền tiêu, để
hai bên thăm dò khả năng lực lượng đối thủ, trên một trận tuyến mở rộng
gần cả trăm cây số, từ Khe Sanh Lao Bảo đến tận Bản Đông, Tchepone Hạ
Lào.
Và nhiệm vụ chúng tôi vẫn chưa hoàn tất,
khi mục tiêu số ba trong phần trách nhiệm chưa giải quyết xong. Hai bên
trao đổi từng đợt pháo kích, mặt đất liên tục bị cày nát lên mù tung
bụi cát, khói lửa. Lệnh Phú Bổn phải tấn công dứt điểm trước khi trời
tối, chúng tôi hiểu, khi truyền đạt lệnh này, ông đã nghĩ đến những khó
khăn sẽ gặp trên một chiến trường hoàn toàn xa lạ vào đêm tối. Kinh
nghiệm trận mạc của người Sĩ quan Đại đội trưởng thâm niên nhất đơn vị,
xuất thân Khóa 18 Võ Bị Quốc Gia, khước từ thân thế, đã từng thu xếp cho
ông một chỗ êm ấm trong văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn, để về đơn vị chiến
đấu, mọi quân hàm trên cổ áo đều nở sớm trước niên hạn qua biết bao
nhiêu chiến tích.
Hai giờ chiều, mặt trời đã ngả về Tây,
cơn nắng chói khô khốc chợt rộ lên luồng gió nóng, ngay sau khi căn hầm
cuối cùng tại bờ suối bị Thông và Muôn tiêu diệt; Trung đội cấp tốc tiến
lên phía trước, di chuyển thật nhanh trên một địa hình trống trải dưới
hỏa lực vỗ mặt của địch, tuyến tấn công phải mở rộng hai cánh. Chúng tôi
cũng chẳng phải Tề thiên Đại Thánh hay mình đồng da sắt gì để khơi khơi
xông thẳng vào lửa đạn, từng khoảng cách rút ngắn giữa địch và ta cũng
đồng nghĩa với từng phút giây bọt bèo sống sót. Là từng giây phóng mình
thật nhanh từ điểm ẩn nấp này lao qua điểm ẩn nấp khác, gò mối, gốc cây,
bụi cỏ, tảng đá, hay thậm chí chỉ là một nhánh lá mong manh. Đạn địch
xủi dưới gót chân, đạn vỡ tung vỏ cây trước mặt…Là bắn, là bắn, bắn hết
khả năng của vũ khí, để tiếng đạn mình át tiếng súng thù, để chỉ còn bên
tai tiếng nổ dòn của M16, tiếng gà nòi ấm cũng của M60…Cọc cùm…cọc cùm
M79 gõ nhịp. Lưng chừng đồi cỏ cây ngã rạp, vỏn vẹn chừng một trăm mét
nữa là xong, là phận ai nấy biết, nhưng không tài nào, tiến lên được
nữa. Chúng tôi bị chận đứng ngay trên vị trí một Trung đội của họ bị
tiêu diệt trước đó, xác người rải rác chung quanh những vết nổ của đạn
pháo.
Bây giờ đến lượt pháo địch nổ giữa chúng
tôi, cộng với hỏa lực dày đặc từ đỉnh đồi bắn xuống không ngóc đầu lên
được chứ đừng nói nhổm người dậy. Tôi rủa thầm, ở đâu ra mà nhiểu 12ly8
bắn rán mặt, đụng sơ sơ từ sáng tới giờ, cả 3 tuyến đều có phòng không.
Gió lại trổi mạnh, cũng may, nhờ thế mà những trái 82 ly bị đẩy dạt khỏi
mục tiêu, dù không xa, nhưng cũng hạn chế được ít nhiều thiệt hại, cũng
có thể họ chưa tính hết sức gió trong yếu tố tác xạ. Giờ này mà có vài
phi tuần gõ xuống đỉnh đồi chừng chục trái năm trăm pound, bới tung hầm
hố nó lên thì đỡ vất vả biết bao?
– Một, Hai, Ba đây Phú Bổn!
– Một nghe đích thân!– Hai nghe đích thân!
– Ba nghe đích thân!
– Cho cóc nhái sẵn sàng! Các Đích thân gặp Phú Bổn ngay.
Tôi ngạc nhiên, đang đánh chác thế này
co về thủ sao được trên một vị trí quá nguy hiểm mà ổng lại ra lệnh sẵn
sàng mìn và chiếu sáng? Phân vân thì phân vân, cũng phải tìm gặp ổng rồi
mới tính. Giao máy cho Thượng sĩ Sâm chỉ huy trung đội, tôi lần mò trở
lại chừng hai mươi mét. Cả bộ chỉ huy đại đội mặt mày đen thui vì khói,
than, chẳng hơn gì chúng tôi.
– Vắn tắt cho các anh rõ! Lệnh Sư đoàn
phải nuốt xong cục xương này mới được nghỉ. Tập trung mìn chiếu sáng lên
phía trước, theo lệnh trên máy, đồng loạt ném và xung phong ngay, các
anh thấy gió chuyển hướng mạnh về phía tụi nó chứ?
– Đốt tụi nó?– Phải làm nhanh, gió đổi hướng lại chạy không kịp đó! Rõ chưa? Về làm nhanh!
Trước khi quay về Trung đội, tôi liếc nhìn cuộn poncho gói xác, đưa mắt hỏi Thượng sĩ nhất Xá:
– Ai đó?
– Trung sĩ Tâm, Pháo binh Đề lô.
Lẩm nhẩm một lời cầu nguyện vô bổ, chết chi trẻ quá Tâm ơi! Tôi băng mình trở lại tuyến chiến đấu, chuyển đạt nhanh chóng mệnh lệnh tác chiến.
– Một, Hai, Ba, đây Phú Bổn! Xong chưa?
– Một xong!
– Hai xong!
– Ba xong!
– Đánh!
Tôi phất tay cho Trung đội đồng loạt ném
hết cơ số mìn chiếu sáng về phía trước. Tách tách tách…xòe xòe…tách
tách xòe xòe lốp bốp lốp bốp, ngọn lửa lùng bùng lên dữ dội rồi lan
nhanh về phía trước, râu tóc mặt mày khét lẹt. Thế thượng phong ngàn năm
một thuở, lửa lửa, lửa cuộn lên theo tiếng quân reo, lửa tràn lên theo
cỏ tranh dòn dã, khói cuồn cuộn mịt mù, khói làm màn che cho quân ta
tiến tới, bốc trong bão lửa xông lên. Lưỡi lửa liếm một vòng cung hình
bán nguyệt, thắt gọn vị trí địch trong trận hỏa công dữ dội, những căn
hầm được ngụy trang kỹ lưỡng bằng cỏ tranh tiệp màu bỗng chốc trở thành
mồi ngon cho ngọn lửa, hầm đạn nổ tung tóe, cả ngọn đồi nhanh chóng ngập
tràn biển lửa, địch quýnh quáng tung hầm tháo chạy, có tên lưng còn bốc
khói. Các chiến sĩ khinh binh tràn lên đỉnh đồi chiếm lĩnh trận địa,
thanh toán nhanh chóng những ổ kháng cự yếu ớt, địch làm sao chống lại
nổi khi trước mặt là lửa táp, là khói thuốc theo luồng gió ngược, lùa
vào mồm vào mũi, tối tăm mặt mày chưa kịp dụi mắt ngáp gió lấy hơi đã
gục ngã trước lưới đạn càn quét quyết liệt của quân ta đang tràn lên
theo lửa cuốn. Đại đội khai thác tức khắc hiệu quả chiến thắng, thúc cả
ba Trung đội đánh bung sườn đồi, đuổi địch chạy có cờ xuống thung lũng.
Trận đánh thật đẹp và hùng tráng, trong
bối cảnh ráng chiều chưa tắt, ánh nắng xuyên qua khói lửa rải xuống
chiến trường những giải vàng lóng lánh, thấp thoáng bóng quân ta dọc
ngang đỉnh đồi, như thấp thoáng hồn sông núi cựa mình muốn vượt qua định
mệnh. Tiếc quá, không có một phóng viên chiến trường nào ghi lại được
trên băng nhựa phút giây ngất trời ngạo nghễ đó, để mai này, trên những
ký sự truyền hình được chiếu ra rả từ hai phía suốt hai mươi năm, cuộc
chiến trên quê hương đau đớn chúng ta không phải chỉ là cuộc chiến của
người Mỹ và phía bên kia.
Bộ chỉ huy Đại đội cũng lên tới đỉnh đồi
trong lúc địch vẫn tăng cường độ pháo kích, chúng tôi được lệnh thu dọn
chiến trường thật nhanh để rút khỏi trận địa. Có lẽ thăm dò như thế là
đủ và chúng tôi cũng đã kiệt sức sau một ngày dài quần thảo không ăn
không uống, ngoài những bụm gạo sấy bốc vội vàng thẩy vào miệng, chiêu
một chút nước dè xèn, hầu có đủ sức đuổi theo chiến trận
Dưới hỏa lực pháo kích ngày càng dữ dội,
Đại đội nhanh chóng chuyển tất cả thương binh tử sĩ về phía sau cùng
với súng ống của địch; không đủ thời gian thu nhặt, nên ngoài những vũ
khí cộng đồng bắt buộc phải chuyển về như cối 12ly8 và 82 ly không giật
mà địch còn để lại nguyên vẹn, các vũ khí cá nhân AK, B40, phải tháo gỡ
tùng bộ phận, nòng súng liệng một nơi, cơ bẩm quẳng một ngã, lửa cháy để
lộ nguyên một đỉnh đồi với hầm hào chi chit của cấp đại đội cộng. Thế
mà trước đó, khi hai chiếc HU1A bay lòng vòng trên đầu, họ vẫn ém kỹ hỏa
lực mạnh mẽ này không khai hỏa, mãi cho đến khi chống đỡ dưới áp lực
công kích của chúng tôi, mới lên tiếng.
Trong số địch tử thương, có hai người là
cấp chỉ huy, trong căn hầm bị Trung sĩ Yến, Tiểu đội trưởng Tiểu đội
hỏa lực số hai bắn sập bằng M72, có cả máy truyền tin Trung cộng, hai
xác chết đeo hai cây K59 còn mới.
Và thật đau đớn, ngay khi nhận được lệnh
di chuyển khỏi vị trí, chúng tôi vĩnh viễn mất người chỉ huy thân
thiết, tài giỏi. Thượng sĩ nhất Xá băng ngược đội hình, chạy lên tìm
tôi:
– Trung úy! Đại úy chết rồi!– Sao? Sao?
Tai tôi lùng bùng, không tin điều mình đang nghe.
– Thượng sĩ Đàng! Thay tôi chỉ huy Trung đội.
– Vâng! Trung úy.
Tôi theo ông Xá chạy quành về Bộ chỉ huy
Đại đội. Trên vết nổ còn bốc khói của một trái ly 82, Đại úy Lê Thành
Bôn, Đại đội trưởng Đại đội 33 Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù đã anh dũng hi sinh;
hai tay ông còn nắm chặt ống liên hợp trên hai chiếc máy truyền tin vỡ
nát, bên cạnh hai người lính truyền tin hy sinh cùng lúc. Tôi biết,
trong những mệnh lệnh mà ông truyền đạt trên máy, yếu tố hạn chế thiệt
hại cho thuộc cấp là ưu tư hàng đầu của người sĩ quan nhân hậu, đằm thắm
và tài ba nhất tiểu đoàn. Nếu không có ông, mấy ai đã nghĩ ra trận hỏa
công thần sầu đem chiến thắng về cho đơn vị với thiệt hại tối thiểu.
Tôi nằm hụp xuống khi tiếng đạn xé gió
lao tới, hai máy truyền tin không còn xử dụng được, phải kéo máy của
Trung đội hai và Trung đội bốn về để duy trì cchir huy liên lạc. Tôi lên
máy báo về Bộ chỉ huy tiểu Đoàn:
– Không chín đây Phú Bổn!– Không chín nghe!
– Đích thân Phú Bổn đã về nhà.
– Tôi hiểu! Giữ nguyên vị trí! Hồng Vân sẽ cho lệnh tiếp.
– Phú Bổn nhận.
– Không ba đây không sáu.
– Không ba nghe (Không sáu – Sĩ quan hành quân tiểu đoàn. Đại úy Lê Hồng)
Không ba bây giờ là Phù Đổng. Phù Đổng bẻ cổ gà gặp Hồng Vân. (Bẻ cổ gà: thay tần số liên lạc)
– Phù Đổng nhận
Tôi nhận được lệnh tạm thời chỉ huy Đại
đội trong khi chờ đợi một vị Đại úy khác ra thay thế, và cấp tốc đưa đơn
vị trở lại Thanh Lan, dành khoảng trống mục tiêu cho một vệt B52 sẽ cắt
ngang trước nửa đêm.
Tạm thời, nhưng tôi biết là sẽ vô cùng
nặng nề đối với chàng thanh niên hai mươi lăm tuổi, chưa tròn bốn năm
lính kể cả chín tháng ở quân trường, dù đã vững chải trong nhiệm vụ
Trung đội trưởng, quen thuộc chiến trường với hai mươi chín, ba mươi
người lính, quanh quẩn tới lui cũng chỉ có hai tiểu đội hỏa lực, một
tiểu đội khinh binh, khả năng điều động chiến thuật cũng đơn giản, chỉ
đâu đánh đó, mà ông Đại đội trưởng đã thân mật, gần gũi như một người
anh cả trong gia đình, về tuổi quân cũng như tuổi đời. Địch trải rộng
tầm pháo kích suốt trận tuyến khi mặt trời vừa tắt bóng.
Gồng mình với trách nhiệm mới và thật vô
cùng lúng túng trước tiếng đạn réo bom rơi, hai tai léo nhéo hai ống
liên hợp, không biết phải nghe thằng nào trước thằng nào sau. Bộ chỉ huy
Tiểu đoàn nóng lòng thấy chúng tôi bị pháo kích liên tục lại đòi hỏi
phải tái xác định chính xác vị trí súng cối địch, chính xác? ở đây tôi
nào có nghe được tiếng nổ đầu nòng của họ, tôi nói phải nhờ thằng 32
“Hồng Thiếp” và 31 “Minh Châu” đang quanh quẩn đâu đó, không xa vị trí
chúng tôi xác định giúp, quay qua máy nội bộ giải quyết nhiệm vụ của On
và Bé, để hoạch định kế hoạch rút đơn vị trở lại Thanh Lan, tôi vẫn giữ
danh hiệu cũ:
– Một, Hai, Ba đây Phú Bổn! Trao máy đích thân.
Chờ các Trung đội lên máy đầy đủ, tôi
vắn tắt kế hoạch triệt thoái. Biết địch vẫn dai dẳng bám trận địa, như
con thú đang bị đánh đau; nếu chúng tôi sơ ý quay lưng lại tức thì họ sẽ
chồm lên dữ dội, trong lúc đó, chưa biết tình hình “Thanh Lan” như thế
nào? Và câu hỏi đã thực sự làm chúng tôi lo lắng; liệu có cái bẫy nào
dương sẵn ở đó? Cũng chẳng còn thời gian lưỡng lự, tôi quyết định gởi
Thượng sĩ Đàng, trung đội hai thận trọng thâm nhập Thanh Lan, không bằng
con đường tiến quân buổi sáng, mà bằng một lối đi tắt khác, ngắn hơn,
kín đáo hơn bên sườn trái.
Trong lúc đó, On và Bé vẫn phải cố thủ ở
vị trí cũ ở tuyến trước, sau khi kín đáo rải vài trái claymore, và các
vị trí M60 sẵn sàng chiến đấu, thành phần còn lại bắt đầu…đào hố chiến
đấu, hoặc sửa sang lại các hầm hố của địch. Chỉ giả vờ thôi, chúng tôi
muốn địch hiểu rằng, chúng tôi sẽ cố thủ ở đây và sẵn sàng chờ đợi cuộc
phản kích của họ, tất cả nón sắt của thương binh, tử sĩ đều được chuyển
lên phía trước cho Trung đội một và Trung đội ba, đặt rải rác chung
quanh vị trí sau khi lấy thuốc muỗi bôi đều lên làm tăng độ bắt sáng.
Dưới ánh sáng mờ mờ của hỏa châu, những chiếc nón sắt tròn láng, chắc
chắn sẽ được địch nhận ra dễ dàng, dù đã được “khéo léo” ngụy trang với
dăm ba chòm lá trước khi rời vị trí.
Bầu trời trong và cao vời vợi, pháo đội B3 vẫn duy trì bắn cận phòng và chúng tôi an tâm với sự yểm trợ hửu hiệu đó. Thành, Sĩ quan đề lô trấn an:
Bầu trời trong và cao vời vợi, pháo đội B3 vẫn duy trì bắn cận phòng và chúng tôi an tâm với sự yểm trợ hửu hiệu đó. Thành, Sĩ quan đề lô trấn an:
– Tao đã xin ông Đương bắn hết mình cho mày!
Tôi cảm ơn anh, toán tiền sát Pháo binh
đi theo đại đội có ba người nay chỉ còn hai, và nổi mất mát không còn là
của riêng ai để chia xẻ.
– Phú Bổn đây Hai!
Tôi chụp vội ống liên hợp:
– Nghe Hai.
– Đã gặp lại Thanh Lan, vô sự.Tôi thở phào nhẹ nhõm:
– Làm ăn kỹ chưa?
Đàng cho biết, đã lục soát kỹ và không có dấu vết gì khả nghi.
Tôi gọi Trung đội một yểm trợ Trung đội
bốn chuyển thương binh, tử sĩ rút theo đường cũ, liên lạc trực tiếp với
Trung đội hai tránh ngộ nhận, Bộ chỉ huy đại đội rút sau cùng với Trung
đội ba.
Cho đến khi chúng tôi đã rút trọn vẹn về
vị trí an toàn, địch vẫn liên tục pháo kích vào vị trí “không người”
mãi tới sáng hôm sau.
Hai mươi lăm năm sau, khi có điều kiện
hồi tưởng lại toàn bộ sự việc và diễn tiến cuộc hành quân của đơn vị
trong phạm vi hiểu biết cũng như tất cả biến cố mà mình đã trực tiếp
tham dự hoặc chứng kiến để viết lại thiên ký sự này tôi vẫn không tin
những quyết định mâu thuẫn và thiếu tính đồng nhất chiến thuật là quan
điểm độc lập của Lữ đoàn.
Dĩ nhiên, được rút ra khỏi trận địa là
một điều nhẹ gánh cho đơn vị tôi, và dù ai chỉ huy Lữ đoàn hay Tiểu đoàn
lúc đó, cũng phải ra một mệnh lệnh tương tự khi mà phía Đồng minh đã
thông báo vị trí chúng tôi nằm trên tọa độ oanh tạc của B52. Thế nhưng,
độ chấn động của những trái bom năm trăm pounds được rải xuống hôm đó
chỉ đủ làm rung cánh võng… Nghĩa là cách xa chúng tôi ít nhất cũng trên
mười cây số.Để rồi mấy ngày sau (khi chúng tôi đã được rút về căn cứ),
khi nhận thấy có những nguy cơ xuất phát từ đó để uy hiếp đồi 31. Bộ tư
lệnh cuộc hành quân đã cho đổ bộ hai đại đội của Tiểu đoàn 6 Nhảy dù
xuống những ngọn đồi chúng tôi đã chiếm được và đã triệt thoái, với tình
thế khác hẳn. Ở đó, địch đã trở lại với quân số nhiều hơn và đã dọn sẵn
một tọa độ pháo kích tập trung, chính xác. Chúng tôi ở trên đồi 31,
quan sát cuộc đổ bộ của đơn vị bạn bằng mắt thường, lòng xót xa theo
những cụm khói bốc lên của đạn pháo địch…
Những thách thức cam go đã bắt đầu lộ diện kể từ sau cuộc đổ quân đẫm máu đỏ.
Căn Cứ Hoả Lực Hồng Hà Hạ Lào (Lam Sơn 719) ngày 14 /2/1971. Nguồn: AP
No comments:
Post a Comment