Rõ ràng người ta đã cho rằng chiến dịch Lam
Son 719 vào Hạ Lào là một thảm bại cho Nam Việt. Tuy nhiên sự thật khác
hẳn, vì hiện nay với băng ghi Abrams và các nguồn tin khác đã cho biết
là quân Bắc Việt thiệt hại nặng khiến cho chúng mất trớn tổng tấn công
miền Nam để ta có thì giờ kiện toàn Việt-Nam-Hóa-Chiến-Tranh.Trong tài
liệu WIEU (cập nhật hằng tuần tình báo) ngày 30 tháng Giêng ta thấy địch
quân biết đôi chút về hành quân vượt biên giới của ta. Tám ngày trước
khi cuộc hành quân khởi diễn, COMINT (tình báo vô tuyến) nhận thấy địch
quan tâm đến các hoạt động phía ta tại vùng 1 và những khu vực lân cận
Hạ Lào. Đã phát hiện các truyền tin của địch từ ngày 24 tháng Giêng để ý
đến “quân ta có thể đánh qua biên giới phá trục tiếp vận của chúng”.
Cũng
có tin tức là địch hết sức lo cuộc đổ bộ vào Bắc Việt và sư xâm nhập
Lào từ những chiến hạm ngoài khơi, vv.Ngày 8 tháng Hai các đơn vị QLVNCH
vượt biên vào Lào trên trục lộ 9 với thiết giáp, nhẩy dù, biệt động,
thủy quân lục chiến và lục quân. Tổng số 10,000 quân đã nhập đất Lào vào
cuối tuần. Cùng lúc, 10,600 quân tiến vào Cao Mên.Khi Đô Đốc McCain Tư
Lệnh Thái Bình Dương (CINPAC) dự thuyết trình ngày 19 tháng Hai thì được
biết các đụng độ khá cao ở cấp Đại Đội và nhiều trận lẻ tẻ đã diễn ra
trên khắp chiến trường.
MACV theo rõi sáu tiểu đoàn địch đương
đầu QĐVN tại Lào. Quân Đội Mỹ không được phép tham dự nhưng sư yểm trợ
của không lực Mỹ đã mất 21 trực thăng trong 7,000 phi xuất (tổng số thất
thoát trong chiến dịch là 108 nghĩa là 21 cho 100,000 phi xuất).Trung
Tướng William E. Potts của MCV J-2 đã tóm lược cho Đô Đốc McCain như
sau: “Điểm đáng ghi nhận là trong chiến dịch Lam Son, địch quân đã đưa
ra tất cả những gì chúng hiện có hoặc đang gửi đến ngoại trừ Sư Đoàn 325
và Tiểu Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 304. Vậy nếu chúng bị thiệt hại thì chúng
sẽ tụt hậu trong một thời gian khá lâu”. Tướng Abrams nói thêm, “Lẽ cố
nhiên chúng ta mong đón tất cả bọn chúng với toàn thể sức mạnh của chúng
ta”. .
Dầu vậy, đến ngày 20 tháng Hai, nghĩa là gần hai tuần sau chỉ có sáu Trung Đoàn địch hiện diện trong chiến dịch Lam Sơn.
Thuyết
trình viên nói trong buổi họp chỉ huy WIEU (dự đoán tình báo hàng tuần)
ngày hôm ấy là, “thật vậy sự phản công mạnh mẽ của địch đã xẩy ra đêm
18 tháng Hai. Phía ta có một lực lượng tương đương với 18 tiểu đoàn vẩn
tiếp tục tìm địch thanh toán”.Đại Tướng Abrams nhấn mạnh với ban Tham
Mưu và các cấp chỉ huy của ông là phải cho quân Việt Nam mọi phương tiện
cần thiết để họ chiến thắng trong trận hệ trọng này. “Đây là một dịp dể
giáng cho địch một vố ta chưa bao giờ làm được”. Ông nhấn mạnh hết sức ý
nghĩa khi Hoa Thịnh Đốn đưa ra một vài chỉ trích: “Ai cũng biết cái rủi
ro từ lúc đầu nhưng ta thấy là đã đến lúc phải chấp nhận rủi ro”.
Khi
qua Hoa Thịnh Đốn Đại Sứ Bunker đã trình bầy tất cả các khía cạnh tương
quan.Cho đến ngày 24 tháng Hai, MACV vẫn theo dõi sáu Trung đoàn địch
(tăng lên thành bẩy ba ngày sau) trong chiến dịch Hạ Lào. Trong tường
trình cho Tướng Abrams, thuyết trình viên đã nói rằng bốn tiểu đoàn
trong số 18 cung cấp cho Trung Đoàn địch hình như đã bị tê liệt. Cũng
trong ngày ấy số tử thương của địch quân được ước lượng là 2,191 người
trong khi quân bạn mất 276 mạng.Đến đây thì một khó khăn lớn xẩy ra là
thiếu hụt trực thăng. Mà Quốc Lộ 9, con đường chính Đông Tây có nhiều
đoạn bị đào sâu lên đến cả sáu thước khiến cho việc xử dụng con lộ này
hầu như bị gián đoạn.
Nhất là loại bồn chở xăng không thể đi qua
được. Bởi vậy phải tiếp tế bằng phi cơ, ảnh hưởng nặng nề lên đội ngũ
trực thăng. Sự tính toán điều hành và sửa chữa cấp bách đã xoay lại tình
thế. Cho nên khi Tướng Julian Ewell, một nhân vật không mấy thiện cảm
với chiến dịch, đi thanh tra ông đã nói, “tỷ lệ sẵn sàng hành quân
(operational readiness) ngày Chủ Nhật khi tôi đến thăm là 79%, một con
số vượt bực”.Cùng lúc địch tung ra một trận tấn công lớn với thiếp giáp
và tràn ngập cứ điểm 31 là nơi trú quân của Tiểu Đoàn Bộ Đệ Nhất Sư Đoàn
VNCH. Người ta đã ghi nhận địch có 350 quân bị giết và 15 thiết giáp bị
phá hủy đối lại 13 quân bạn chết, 39 bị thương và ba thiết vận xa bị hư
hại.Người ta nhận thấy ngày mồng 1 tháng Ba một Trung Đoàn địch nữa đã
tham chiến nâng tổng số lên tám đơn vị (trong 24 tiểu đoàn có sáu đã bị
tê liệt).
Đại Tướng Abrams nói, “thật là một trận khủng khiếp”.
Trong buổi thuyết trình cập nhật ngày 4 tháng Ba thuyết trình viên đã
nhắc lại rằng ngày 11 tháng Hai đã thấy dấu hiệu địch chuyển sang thế
tấn công. Tuy nhiên sự việc chỉ xẩy ra ngày 18. Ta có thể nói là địch đã
mất quân số vào khoảng bẩy tiểu đoàn chủ động, còn số thiết giáp của họ
vào khoảng 100 chiếc lúc đầu thì nay chỉ còn từ 65 đến 70 chiếc mà
thôi. Ở thời điểm này ta ước lượng địch quân có tại hiện trường 15,000
chiến binh cộng với từ 8,000 đến 10,000 quân hậu cần trong khi bên ta
huy động mười sáu tiểu đoàn chủ động.Khi một tù binh thuộc Trung Đoàn
24-B khai rõ sự tộn thất nặng nề trên đường 92 về phía Bắc Bản Đông thì
phòng J-2 MACV giảm hiệu lực của địch đi hai Tiểu Đoàn, nghĩa là trong
số 30 Tiểu Đoàn địch thuộc 10 Trung Đoàn tung ra trên chiến trường đương
đầu với quân VN thì chúng đã mất hẳn 10 Tiểu Đoàn.
Tướng Abrams
nói, “Tôi càng tin chắc rằng đây có thể là trận quyết định chiến cuộc”.
Tướng Potts nói thêm, “Họ mất một nửa chiến xa, một nửa đại bác phòng
không và 10 trên 30 Tiểo Đoàn”.Trong một buổi cập nhật tình báo hàng
tuần (WIEU) ngày 20 tháng Ba, Đại Sứ Bunker nói Chiến Dịch Lam Sơn đang
chấm dứt là một cuộc hành quân rất thích ứng. Tướng Abrams bèn trả lời:
“Thật là một trận đánh cam go. Tuy nhiên ảnh hưởng lên phần cuối năm nay
hết sức to lớn.
Chúng đã tung nhiều lực vào Lam Son và đã bị
thua đậm ”Ngày 23 tháng Ba khi địch quân tung vào thêm Trung Đoàn thứ
mười ba, thuyết trình viên trình bầy rằng chín trong số mười một Trung
Đoàn đã bị thiệt hại nặng nghĩa là họ chỉ còn khoảng 17 Tiểu Đoàn chủ
động trong số 33 đem ra. Ngoài ra họ lại còn mất khoảng 3,500 đơn vị hậu
cần. Khi các yếu tố được trình bầy trong kỳ WIEU thì Tướng Potts nói
thêm, “Không phải các Tiểu Đoàn ấy bị sút kém nhưng chúng đã bị hoàn
toàn tiêu diệt”.Quân đội VNCH cũng chịu nhiều tổn thất, 1,416 bị giết và
714 mất tích.
Nhiều khí cụ đã bị phá hủy hay bỏ lại khi vội vã
rút lui. Khi xét lại kết quả, Đại Tướng Sutherland nhận định như sau:
“Khuyết điểm từ lâu là Bộ Tham Mưu VN không có đủ khả năng thiết kế và
phối hợp Không Lực cũng như phối hợp yểm trợ không địa. Tuy nhiên họ dã
học hỏi nhiều trong chiến dịch này”.Quần chúng hết sức ủng hộ trận Lam
Sơn. Khi Ông Thompson tới viếng thăm hồi cuối tháng Ba người ta đã trình
bầy với ông kết quả cuộc thăm dò dư luận trong 36 tỉnh. Kết quả cho
thấy 92% đồng ý với các chiến dịch như Lam Sơn 719, 3% chống đối và phần
còn lại không có ý kiến. Kết quả cho thấy một phân xuất rất cao so với
bất cứ lần thăm dò về bất cứ một vấn đề gì trước đây.
QLVNCH đã
chiến đấu trong 42 ngày liền tại Lào. MACV trình bầy khiêm tốn cho Bộ
Trưởng Lục Quân Stanley Resor là Chiến Dịch Hạ Lào đã “thử thách QLVNCH
trước một địch quân quyết tâm trong trận địa xuyên biên giới. Chắc chắn
là đã phá được đường tiếp vận của họ”. Ở Hoa Kỳ người ta kêu đó là một
thảm bại của quân Việt. Lẽ cố nhiên bộ máy tuyên truyền Hà Nội vội vã
túm lấy cơ hội.Tuy nhiên Tướng Abrams nhận định là chiến dịch nhất định
có lợi cho QLVNCH. “Từ trước ta cứ tưởng rằng Bắc Việt có thể chiến
thắng họ. Chiến tranh chưa chấm dứt nhưng Bắc Việt bắt đầu thấy là họ
phải đương đầu với một công việc khó hơn nhiều”.
PHẦN 6 -
MỘT CUỘC CHIẾN THẮNG LỢI
Phương
pháp áp dụng trong giai đoạn Abrams đã có kết quả tốt mặc dầu nhiều
người không tin như vậy. Quân Mỹ đã lần hồi rút nên quân Việt đạt nhiều
thành quả hơn. Vì chiếm được nhiều đất hơn nên đã thấy nhiều lính địch
quy thuận hơn. Trong năm 1969 có 47,000 hàng binh cọng thêm 37,000 hồi
chánh năm 1970. Mỗi Sư Đoàn Bắc Quân có 8,689 quân số. Như vậy thì số
đào ngũ của họ trong hai năm bằng chín Sư Đoàn.
Đã đến chiến
thắng mặc dầu vẫn phải đánh nhau là vì Nam Việt đã đủ khả năng giữ vững
chủ quyền và tự lực hành động với lời hứa yểm trợ của Hoa Kỳ như họ vẫn
làm cho đồng minh tại Tây Đức và Nam Hàn.Ngay từ cuối năm 1969 John Paul
Vann, một nhân vật chính của chương trình bình định đã viết cho cựu Đại
Sứ Henri Cabot Lodge như sau: “Tôi không cần thăm Hoa Thịnh Đốn hay Ba
Lê như trước để tìm cách thay đổi chính sách Việt Nam. Tôi hài lòng với
chính sách hiện hữu.
Tôi nghĩ rằng chúng ta đã đạt mục tiêu bỏ
được số Mỹ tử vong sau 1972 và chiến phí (cuộc chiến sẽ còn kéo dài mãi)
sẽ giảm hẳn vì được người Việt lo liệu với sự trợ giúp tiếp vận và tài
chính của chúng ta”.Ngoài trách nhiệm chiến đấu thay vào quân Mỹ rút đi,
Nam Việt còn phải đương đầu với nhiều thay đổi chính sách. Đại Tướng
Abrams nói rõ là họ phải vượt qua các trở ngại mỗi ngày một khó hơn. Ông
nhắc lại, “Chúng ta đã bắt đầu từ năm 1968,.
Mục tiêu của chúng
ta là đến 1974 họ phải quất nặng bọn VC để sau nữa sẽ đập cả bọn Việt
Cộng lẫn quân Bắc Cộng tại miền Nam. Rồi họ phải nén chặt chúng lại, nén
ba bốn lần. Như vậy chúng ta bắt đầu; trong một thời gian dài – ông ra
dấu bằng tay – và phải kết thúc trong thời gian ngắn hơn nhiều”.“Và nếu
cần truy cản Việt Cộng, Bắc Cộng hay giúp Cao Mên chẳng hạn thì chúng ta
cũng giúp tay vào. Tuy nhiên chúng ta cần hết sức cẩn thận không có sẽ
bị trật đường rầy. Ta tránh làm như vậy vì nó sẽ làm cho ta điên lên”.
Sự
thay đổi đường lối quan trọng nhất là loại bỏ dự tính giữ lại một lực
lượng Mỹ lâu dài tại chỗ như thể ở Tây Âu hay Nam Hàn.Ông Thomas J.
Barnes trở lại Việt Nam sau ba năm vắng mặt để làm việc trong chương
trình bình định vào mùa Thu 1971. Ông nói với Tướng Fred Weyand là “tôi
đã ngạc nhiên với ba tiến bộ chính, sự phồn thịnh của nông thôn, Địa
Phương và Nghĩa Quân giữ vững vị trí và phát triển sự tự trị chính trị
kinh tế làng xã.
Ta đã giúp làng xã lấy lại tính cách độc lập và
tự lực theo tập tục Việt Nam. Đó là việc tham gia quan trọng nhất của
chúng ta trong công việc bình định”.Ngay từ giữa tháng Ba 1971 quân đội
Việt Nam đã gánh vác chiến đấu. Thuyết trình viên đã nói với Đại Tướng
Ewell rằng sự chú trọng của Tướng Abrams vào công tác bình định nay đã
hầu như thành tựu 100% với các kế hoạch tương quan. Quân Mỹ đã gần như
rời khỏi việc hành quân”.Những tin tức từ phía địch đã xác nhận thành
quả. Trong một cuốn sách in bởi nhà Xuất Bản Thế Giới Hà Nôi, hai tác
giả Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Võ đã viết, “cuối năm 1968 trong Nam Bộ
các Ấp Chiến Đấu và những vùng xôi đậu đã bị quân đội Sài Gòn chiếm lại.
Cuối 1968 chúng ta đã bị tổn thất nặng. Địch dồn lực lượng vào
công tác bình định thôn quê gây cho chúng ta nhiều khó khăn trong hai
năm 1969-1970. Từ khi quân Mỹ vào Việt Nam chúng ta chưa bao giờ gập
nhiều vấn nạn như trong hai năm ấy. Các căn cứ của ta ở thôn quê bị suy
nhược và vị trí co thắt lại.
Quân ta bị tiêu diệt, không còn đất
bám và phải qua đồn trú tại Cao Mên. Chúng ta trải qua một thời kỳ hết
sức khó khăn trong những năm 1969-1970-1971. Kể từ giữa năm 1968 địch đã
tập trung đánh phá các vùng giải phóng để tiêu diệt và đẩy chúng ta ra
khỏi cứ địa”.Tháng Giêng 1972 Vann nói rằng “chưa bao giờ chúng ta phải
tham chiến ít như bây giờ. Ngày nay thấy rõ các vùng quê phồn thịnh,
đường xá khai thông, cầu kỳ mở lại và bạn có nhiều rủi ro hơn với cả
đống Honda và Lambretta ngược xuôi. Chương trình Việt Nam Hóa Chiến
Tranh đã có kết quả ngoài tưởng tượng”. Đó là công đầu của Việt Nam Cộng
Hòa.
No comments:
Post a Comment