Phan Hội Yên
Máu
lính tế thần đã dâng cao hơn hoạn lộ, để cho bước chân của Tổng thống
Nixon trên Vạn lý Trường thành bớt gập ghềnh khúc khuỷu.
Ngọn đồi vĩnh biệt
Tôi vẫn có thói quen, vài ba lần một
ngày, nhảy qua tần số Đại đội để nghe ngóng, và tối nay, cũng trong dịp
tình cờ như thế, tôi đã nghe đích thân Hồng Thiếp của 32 báo về Tiểu
Đoàn những tin tức không mấy lạc quan. Cuộc chuyển quân của địch đã đột
ngột dừng lại trước vị trí của đơn vị anh không đầy năm trăm mét, bầy
sói đang ở tuyến tấn công. Đại đội 32 đang căng thẳng trong một mệnh
lệnh cứng ngắc của tiểu đoàn, “chận chúng lại.” Tôi bỗng cảm thấy thương
Thiếp vô cùng.
Khi còn chung một đại đội, anh là nỗ lực
chính thường trực của đơn vị, qua hai đời đại đội trưởng, trong khi bọn
tôi “nhái lặn chà quơ” thì Trung đội ba của anh gánh gần như hết gánh
nặng của Đại đội. Lính lác rên rỉ…Sao cái gì cũng thằng Ba…mở đường, Ba,
đột kích! Ba, tuần thám! Ba…Cũng chịu thôi, đã gần như một quy luật bất
thành văn của đơn vị; Thiếp xuất thân khóa 22A Võ Bị, khi tôi về Đại
Đội thì anh đã là Thiếu Úy trải qua Mậu Thân khói lửa…Đồng Ông Cộ, ngã
năm Bình Hòa, An Nhơn…Bà Điểm. Đã từng đổ quân đánh úp tái chiếm đồi
1416, rồi dẫn đầu đoàn quân cùng đơn vị đánh một trận phản phục kích xe
tuyệt đẹp trên quốc lộ từ Dakto Tân Cảnh về Kontum, bề dày trận mạc của
anh làm cho thượng cấp yên tâm phần nào trước những lựa chọn gay gắt.
Khi chúng tôi, ba đứa, On, Hàm và tôi, cùng khóa 26 Thủ Đức bò lên Thiếu Úy thì anh đã là Trung Úy, vẫn chia nhau 4 Trung đội của Đại Đội 33, cùng mày tao chi tớ, cùng bàn bạc rượu chè, cùng mượn qua mượn lại năn ba ngàn mỗi khi cháy túi.
Khi chúng tôi, ba đứa, On, Hàm và tôi, cùng khóa 26 Thủ Đức bò lên Thiếu Úy thì anh đã là Trung Úy, vẫn chia nhau 4 Trung đội của Đại Đội 33, cùng mày tao chi tớ, cùng bàn bạc rượu chè, cùng mượn qua mượn lại năn ba ngàn mỗi khi cháy túi.
Trong cuộc hành quân Toàn Thắng 70,
Khinh Kha của Đại Đội 32 bị thương, ngay lập tức, anh được đưa lên nắm
Đại Đội. Chúng tôi vui mừng chia xẻ với anh niềm hân hoan trong trọng
trách mới, và tự nhiên, không còn bông đùa bỡn cợt, dù anh vẫn thế, thân
mật lắm cũng chỉ gọi nhau bằng ông ông, tôi tôi. Anh đi, gánh của anh ở
Đại Đội về phần tôi vác, khóa của anh đến Tiểu Đoàn 6 người nay chỉ còn
lại mình anh. Khóa của tôi trình diện Tiểu Đoàn 8 đứa, ba năm sau nhìn
lại, chỉ còn một mình tôi may mắn…
Nay anh đứng trước một thử thách nghiêm
trọng, mà tài trí, dũng cảm không có khả năng thay đổi được tình thế.
Đây là nội dung đoạn âm thoại tôi đã nghe đêm qua giữa Hồng Thiếp, Đại
Đội Trưởng Đại Đội 32 và 00 (Bộ chỉ huy tiểu đoàn). Xin được viêt lại
bằng bạch văn:
– 09 đây 02!
– 09 nghe– Cua bò gần tôi quá, xin không kích.
– Có thấy nó không? Bao nhiêu con?
– Chỉ nghe tiếng máy, khoảng chừng 15 con có đèn.
– Loại gì?
– Không rõ!
– OK, không quân đang đến, bằng mọi giá, giữ vững vị trí, chận nó lại cho đến sáng mai, sẽ có tăng viện cho anh.
– Nhận rõ!
Tôi vội vã trở về tần số nội bộ khi phía Tây Nam, hướng Đại Đội 34 chợt rộ lên tiếng súng.
Lệnh báo động đã được phát ra từ chiều, nay được dồn dập nhắc lại, chúng tôi đã sẵn sàng trên chiến hào cho một trận sống mái.
Tôi biết, Thiếp cũng như tôi và tất cả
sĩ quan trong đơn vị đều hiểu rõ, khả năng tăng viện cho chúng tôi không
còn hiện thực, khi đơn vị trừ bị chính của Lữ Đoàn đã được vội vã ném
vào Thái Thanh và thiệt hại khá nặng. Như thế chỉ còn trông chờ viện
binh từ một đơn vị ngoài binh chủng, mà hy vọng này lại còn mong manh
hơn khi từ hậu cứ những tin đồn về sự mâu thuẫn gay gắt giữa các vị
Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn với nhau, và với Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn về sự
khác biệt của quan điểm chiến thuật, chiến lược, hệ thống chỉ huy, v.v.
Những tin đồn đó, đã theo các chuyến bay tiếp tế vào tận tâm can những
người lính đang trải thân ngoài mặt trận. Hơn nữa, lực lượng địch đã tập
trung với quân số đông đảo, hỏa lực vượt trội – gồm hai Trung Đoàn Bộ
Binh, phối hợp với chiến xa và đại pháo, mở một trận thế hoàn toàn mới
mẻ về chiến thuật, quyết đánh chiếm căn cứ 31, thì việc ném thêm một hay
hai Tiểu Đoàn (khả năng có thể có) của ta vào trận địa, không có vũ khí
cũng như kinh nghiệm chống chiến xa, chỉ là hạt muối bỏ biển. Từ trước
đến nay, chúng tôi đã phải tăng viện hết nơi này đến nói khác khắp 4
vùng chiến thuật, đem ít nhiều hy vọng đến cho đơn vị bạn trong cảnh
ngặt nghèo cô thế, nay canh bạc như đã đến hồi tháu cáy, biết có còn ai
chia được lửa với chúng tôi?
Pháo đội B3 bắn dữ dội lên tọa độ địch
tập trung quân, dù chỉ còn ba khẩu đội không nguyên vẹn. Tôi tìm gặp Già
Sâm, Hạ Sĩ Nhất Chính và anh em trên tuyến chiến đấu, M72 còn 8 trái
cho cả Trung đội. Trên đường tiếp cận từ bãi trực thăng lên căn cứ,
chúng tôi hy vọng có thể chận xe tăng địch khi chúng bắt đầu ngóc lên
triền đồi, không loại trừ yếu tố bộ binh tùng thiết, đề nghị đại đội cho
rút toán tiền đồn của Hạ Sĩ Nhất Muôn về, để tăng cương tuyến phòng
thủ, vì ở đó Muôn không đủ khả năng cầm cự, khi địch đã vượt qua được
Đại Đội 32 hiện đang ở xa Muôn hơn một cây số về phía trước. Đề nghị
không được chấp thuận, tôi thông báo cho Muôn đầy đủ tình hình, và điều
tôi chỉ có thể truyền đạt cho anh là điệp khúc “cẩn thận, cẩn thận” quá ư
thừa thãi như tôi đã nhận từ đại đội. Tôi hỏi:
– Muôn có ý kiến gì không? Có cần gì thêm không?
Hỏi cho có hỏi vậy thôi, chứ khả năng
trung đội không còn gì để giúp Muôn bớt cô quạnh. Anh chàng còn xổ nho
chùm làm tôi nổi quạu… “cái tật không bỏ…nan ư thượng thanh niên cái con khỉ gì giờ này nữa cha nội.” Tôi nói xa nói gần cho Muôn hiểu, tùy theo tình hình, anh có quyền quyết định.
Thượng sĩ Đàng nhắc chúng tôi giữ lấy
bên mình mỗi người một khẩu phần gạo sấy phòng khi thất thế; điều này
tôi đã nghĩ tới nhưng không dám nói ra, nhất là không dám truyền đạt cho
trung đội ý nghĩ bi thảm đó; cảm ơn Thượng Sĩ đã nhắc nhở.
Tôi ngồi với Yến bên cạnh cây M60 chong
xuống sườn đồi, mù tênh sương khuya trên những ngọn núi im lìm bóng tối,
cái lạnh thấm vào gan ruột đang bồn chồn chờ sáng; từng đám lửa bập
bùng bên những triền núi đã cháy lên từ bom đạn, bập bùng bập bùng, mang
tôi về hồi ức xa xăm của những ngày thơm ngát mùi phượng vỹ, hai bờ
sông rực rỡ nắng hanh vàng.
***
Tôi chân ướt chân ráo đeo bảng hiệu đoàn
với chữ QH nằm giữa ba gạch ngang, mặt câng câng tưởng mình là cái rốn
của vũ trụ khi có dịp cùng đám con gái trường bên tụ tập trong chương
trình văn nghệ của hai trường sẽ được tổ chức ở rạp Hưng Đạo. Khả năng
văn nghệ đầy mình của tôi dĩ nhiên được trọng dụng. Tôi được phân hai
vai trong chương trình, vai thứ nhất là hát trong giàn đại hợp xướng,
bài hát “Lửa Rừng Khuya” do tác giả là thầy Văn Giảng soạn hòa âm và tập
dợt. Ôi! Chuyện dễ ẹt, tôi tự nhủ. Chỉ cần đứng đó nhóp nhép miệng cũng
hoàn thành nhiệm vụ, khoái nhất là được nhìn đám con gái đang đổ mồ hôi
hột vì tập hát. Con Cẩm Tú, con Thục Đoan, con Khánh Vỹ, con Phùng Nga,
con Vân Nghê…mấy đứa này mới học đệ ngũ đệ tứ mà bày đặt điệu bộ, ngày
thường dễ gì nói được với tụi nó vài câu? Ngay cả lúc cùng đợi, cùng
chung một chuyến đò ngang đi học, tụi hắn cũng chúi vào nhau rúc rúc
rích rích; đám con trai chúng tôi dáo dác ngó lui ngó tới, không biết có
thằng nào mặc quần thủng đít, nay tụi nó đứng đó, miệng méo qua méo
lại, đầu lắc lư như bà bóng, gân cổ nổi xanh lè theo cao độ của điệp
khúc…
“Ta ngồi trong
ánh mắt sương đêm, ta cùng cất cao lời nguyền, thề đồng tâm ta quyết thờ
sông núi, đem vinh quang xây đắp ngày tươi mới,ơ ờ ơ…u ù u.”
Cái chỗ ờ ơ ù u này mới ăn tiền, nhất là
khi thầy ra ngoài giao lại cho thằng Thắng trưởng ban, đến ngay lúc cần
mở miệng để ù u ờ ơ thì thằng Tuế lôi trong túi ra một…trái chanh, hắn
tỉnh bơ vân vân vê vê trên tay, làm như vô tình vô ý, thế là cả đám con
gái háu ăn chú mục nhìn vào tay hắn, nuốt nước bọt ừng ực, ù u ờ ơ trở
thành ậm ậm ừ ừ…
Xong tập hát, tôi lại chạy xuống phòng
khác nhập một vai quan trọng trong vở kịch “Thành Cát Tư Hãn” của kich
tác gia Vy Huyền Đắc; vai này nếu không có tôi, thì vở kịch trở nên
thiếu trước hụt sau, chứ sao? Thử hỏi mỗi lần Đại Đế nổi trận lôi đình,
ra oai “Quân bây!” mà không có tôi dõng dạc “Dạ” một tiếng rõ to thì còn
gì là Đại Đế, đó là chưa kể nhiều lúc tập lui tập tới quá mệt, Đại Đế
vẫn cứ lụp chụp trong động tác đỡ cái ngã tuyệt vời của Công chúa thành
Tây Hạ, đang đau đớn trước cảnh nước mất nhà tan. Ngài thấy tôi đứng xớ
rớ bèn bán cái… “Quân bây! Đỡ công chúa cho ta!” tôi nhào vô đỡ
liền sau khi “dạ” thật to theo quân lệnh, mặc cho Công chúa Tây Hạ, bà
chằng lửa cùng xóm, học chung lớp với tôi mấy năm Tiểu học, tròn mắt
nạt… “Quân! không được hỗn!”
Vậy đó, mà buổi trình diễn văn nghệ của
hai trường thành công ngoài sức tưởng tượng. Vé bán hết trước đó cả
tháng, tôi chẳng bao giờ quên được tiếng hát ngọt ngào của chị Túy Vịnh
“Nhìn những mùa thu đi” khơi giòng cho nhạc Trịnh Công Sơn ra biển nhớ.
Và tươi trẻ của tam ca “Đêm đô thị” được biến tấu theo điệu twist đang
thịnh hành của những năm 62, 63 (hình như có công chúa Tây Hạ trong ban
tam ca này); không kể cái đinh của chường trình là vở kịch kinh điển,
chúng tôi đã ứa nước mắt khi cả rạp hát cùng đứng dậy vỗ tay sau màn đại
hợp xướng của gần năm, sáu mươi nam nữ học sinh của hai trường, dưới
quyền điều khiển của Nhạc sĩ Văn Giảng, giáo sư dạy nhạc của chúng tôi.
Bài hát trầm hùng sau này vẫn theo mãi tôi trên bước đường hành quân
xuôi ngược…
“Mờ sương rơi
mênh mông, âm u ngàn gió lá. Khuất bóng ánh trăng sao, ngồi quanh hơi
núi giá. Ta khơi lửa hồng bập bùng bập bùng trong đêm thâu…”
***
Bập bùng bập bùng trong đêm thâu. Lửa
rừng đêm bây giờ không còn là lời mời gọi của một thời lãng mạn, hiền
hòa mơ ước, rừng núi đã cháy lên dữ dội, thiêu đốt hàng hàng lớp lớp
thanh niên trai tráng buồn bã xếp bút nghiên theo tiếng gọi non sông.
Những Tú, những Đoan, những Khánh Vỹ…ngày nào giờ có người đã trở thành
góa bụa vừa qua tuổi hai mươi son trẻ.
Tiếng súng lại rộ lên, cùng lúc địch bắt
đầu pháo kích mạnh mẽ vào căn cứ, tôi nhảy xuống hầm áp ống nghe vào
tai. Đại đội cho biết ba toán tiền đồn của đại đội 34 đang bị tràn ngập
bởi bộ binh địch. Ngay lúc đó hướng Bắc của 32 cũng đang bị xe tăng địch
công kích, cuộc tấn công đã bắt đầu, hình như hôm đó, rạng sáng ngày 25
tháng Giêng năm 1971.
Các Đại Đội ngoại vi thúc thủ trước quân
số quá đông đảo của đối phương trong khi còn phải chật vật đối phó với
chiến xa đang tràn lên như chỗ không người, nên Đại Đội 32 được lệnh rút
nhanh về căn cứ 31 để bảo toàn lực lượng, riêng Đại Đội 34 rút về chân
đồi phía Đông.
Thế nhưng, trước khi 32 về đến căn cứ
thì chiến xa địch đã lổm ngổm bò lên vị trí của Muôn, và phần việc của
chúng tôi đã tới. Tôi nhìn thấy tổ tiền đồn bắng trúng đích một chiếc,
cụm lửa vàng khè lóe lên, phủ trùm khói đen trên mục tiêu. Khói tan,
chúng tôi tưởng như nằm mơ, chiếc xe tăng vẫn chậm rãi tiến tới, nòng
đại bác trên chiến xa vẫn khạc lửa dữ dội vào tuyến phòng thủ căn cứ.
Muôn cố gắng bắn thêm hai trái nữa vẫn vô hiệu, anh xách súng dẫn đồng
đội lăn xuống triền đồi khi thêm sáu chiếc nữa cùng với bộ binh địch hò
hét áp đảo tràn lên vị trí, chúng tôi hướng tất cả hỏa lực bắn che cho
Muôn và một vài toán của Đại đội 32 rút về căn cứ, cùng lúc đó hai chiến
đấu cơ A-4 Skyhawk của Thủy Quân lục chiến Mỹ và một phi tuần trực
thăng võ trang Cobra xuất hiện, oanh tạc mạnh mẽ vào đội hình tấn công
của địch.
Tất cả hỏa lực của chúng tôi, cùng với
một khẩu đội B3 trực xạ cận phòng và các tuyến tiên liệu được các pháo
đội khác ở căn cứ A Lưới, 30 bắn yểm trợ đã tạo nên một hàng rào lửa
vững chắc, chặn hết lực lượng xung kích của bộ binh địch ngay tại vị trí
cũ của Muôn. Xác địch ngã trên triền đồi, lăn xuống vực thẳm, ngổn
ngang như những khúc gỗ từ một khu rừng vừa đốn vội, chưa bao giờ chúng
tôi phải bắn nhiều như thế. Hai khẩu M60 đã thay nòng liên tục, quạt
từng giây đạn quét phủ lên mặt trận. Phải nói Yến bắn đại liên thật tài,
chân hai càng được xếp gọn, nòng súng tựa hờ lên công sự tạo một tầm
chuyển dịch rộng lớn và dễ dàng cho xạ trường, để từ đó phủ gọn tuyến
tiếp cận của địch dưới tầm khống chế của con gà nòi dũng mãnh.
Mất sự hướng dẫn của bộ binh, chiến xa
địch khựng lại; hình như họ muốn chỉnh lại đội hình cho một đợt xung
phong khác với hơn mười chiếc đã ở trong tầm quan sát mà chúng tôi nhìn
thấy. Ngay lúc đóm hai chiếc Skyhawk nối đuôi xà xuống sau trái khói chỉ
điểm, từng trái napal hừng hực xé gió quăng xuống mục tiêu chính xác,
dũng cảm, mặc cho hỏa lực phòng không đạn chi chit phủ kín đường bay.
Trận địa địch bùng lên trong cánh rừng xăng đặc, hai chiếc xe tăng tiền
kích ngập trong khói lửa bốc cháy dữ dội, lính xe tăng nhảy ra khỏi xe,
người cháy phừng như ngọn đuốc, lăn lộn, quơ quào rồi ngã gục theo tiếng
nổ bung của chiến xa trúng đạn. Lên tinh thần, Khinh binh Thông cùng
với ba chiến sĩ khác băng vọt ra khỏi chiến hào, chạy nhanh xuống lưng
chừng đồi, cõng về được hai thương binh của 32 và một của chúng tôi từ
tổ tiền đồn rút về, nửa đường bị trúng đạn. Hạ sĩ Nhất Muôn đã tử trận
tại vị trí đó.
Trận chiến vô cùng ác liệt, tất cả các
sự kiện đã, đang và tiếp tục được mô tả, gần như diễn ra cùng một lúc,
dồn dập, chồng chéo lên nhau, đan chặt vào nhau rồi như bị một sức mạnh
vô hình xé bung ra trăm ngàn mảnh. Người viết, dù đã tận mắt chứng kiến,
đã là một chiến binh trực tiếp chiến đấu trong những giờ phút gian nguy
đó, vẫn không tài nào lột tả hết được tất cả mọi diễn biến hung bạo,
tàn khốc của chiến trận..
Trung đội của chúng tôi đã chiến đấu,
trước hết và duy nhất chỉ là vì sự sống còn của bản thân, phải lấy hết
sức mình đương cự lại những bước chân của tử thần đang lần lượt gọi tên
từng mạng sống. Không còn con đường nào khác, không ai là anh hùng,
không ai là dũng sĩ, không ai muốn “Anh dũng hy sinh” mà vẫn phải chết
như rơm như rạ.
Lợi dụng lúc thưa tiếng súng, tôi nhổm
dậy luồn theo giao thông chạy dọc tuyến Trung đội, kiểm điểm lại lực
lượng. Toán tiền đồn sáu người chỉ về đến được ba, hai người chết tại vị
trí, Muôn lại đã để nỗi ước mơ bình thường của mình vỡ vụn từ sau lưng
ra trước ngực trên đường về, và ngay tại tuyến, một vị trí trúng đạn từ
chiến xa địch, một chết. Cái chết của người lính tử trận giống nhau từ
thiên cổ, không phân biệt bên này hay bên kia chiến tuyến, cũng đen đủi
đau đớn, cũng co quắp quằn quại, tay bấu chặt lấy mặt đất như không đành
lìa nỗi bọt bèo của cuộc sống…
Trong khi phía chúng tôi, áp lực địch
tạm thời giảm nhẹ tuy họ vẫn còn ở đó, thì phía bên kia, tuyến phòng thủ
của Trung đội 3 lại vô cùng nguy khốn. Toán tiền đồn năm người của
trung đội, do một binh nhất khinh binh chỉ huy, tại một chỏm đồi thấp
hướng Tây Nam căn cứ vừa bị tràn ngập, sau khi đã chiến đấu đến người
lính cuối cùng, ngoan cường, đẩy lui bốn đợt xung phong của địch, tôi đã
nghe trong máy tiếng gào khàn khàn tuyệt vọng lồng trong tiếng súng
vang trời của những người quyết tử của truyền thống một đổi năm, mười
nếu chẳng may thất thế. Không cường điệu chút nào khi tuyên dương họ như
những anh hùng đã chết trong vinh quang, danh dự khi địch tràn lên vị
trí bằng không biết bao nhiêu xương máu đánh đổi.
Ngay tại vị trí này, địch nhanh chóng bố
trí một cụm hỏa lực mạnh mẽ gồm 2 cây 82 ly không giật và một 12ly8 vừa
phòng không, vừa bắn trực diện, khống chế trọn vẹn vị trí của Trung đội
3. On la chói lói trên máy để xin lệnh Đại Đội…nó bắn quá chịu hông
nổi, sập bốn hầm chết hết rồi. Đại đội lại gọi tôi, hỏi có tăng cường
cho 3 được không? Tôi báo cáo tình hình trên tuyến của mình và đoán chắc
hướng tấn công chính là ngay tại nơi đây, tại tuyến của chúng tôi, khi
phía trước không phải là năm hay sáu chiến xa, con số đã trên mười chiếc
đếm được và vô số bộ binh địch đang lúc nhúc dưới những cành lá ngụy
trang.
Pháo địch vẫn rót tràn đều lên vị trí,
san bằng, vạt thẳng tất cả mọi thứ. Có điều bây giờ chúng tôi không còn
lo lắng, vì không còn phân biệt được đâu là pháo phe ta, đâu là “cà
nông” phe địch trừ khi nó nổ. Đã nổ rồi thì phận ai nấy biết. Đỉnh đồi
trở nên bằng phẳng, và hình như đã thấp hơn phần nào so với khi chúng
tôi vừa mới đến, nhờ thế chỉ cần quay lưng nhìn về phía thằng 3, chúng
tôi cũng nhận rõ vị trí lợi hại của cụm hỏa lực đó; một vài trái bắn hụt
lao vèo qua phía chúng tôi rồi mất hút nổ xa xa; họ bắn liên tục nên họ
quên một điều là cùng chiến đấu với chúng tôi còn có pháo đội B3.
Tôi khom người chạy lên vị trí khẩu
trọng pháo, chỉ cho trung Sĩ Nhất khẩu đội trưởng vị trí 82 không giật
của địch. Và nòng pháo từ từ hiệu chỉnh, tôi nín thở theo cái gục đầu
chầm chậm của khẩu pháo 105 ly hướng về mục tiêu…và “Bắn”. Người hạ sĩ
pháo thủ giật cò, viên đạn rơi nòng trực chỉ khâu đội địch Ầm… chúng tôi
nhảy lên reo hò sung sướng khi nhìn thấy rõ ràng khẩu 82 ly không giật
của địch tung bắn lên trời sau tiếng nổ chính xác. Chỉ một viên đạn
thôi, các chiến sĩ pháo binh đã triệt tiêu hiểm họa đó.
Tần số trên máy truyền tin bị nhiễu loạn
vì quá nhiều trùng lấp, lẫn lộn những mẩu đối thoại tối nghĩa, chỉ nhận
biết nhau nhờ quá quen thuộc tiếng nói giữa các hiệu thính viên, cũng
như vài phân biệt nhỏ của ngôn ngữ truyền tin. Tuyến của chúng tôi nằm
cách xa Bộ chỉ huy Đại Đội, nên gần như độc lập tác chiến, tôi chỉ kịp
thông báo cho Đại Đội là địch bắt đầu tấn công trở lại, rồi nằm hụp
xuống nghe lằn đạn veo véo trên đầu; đội hình địch từ triền núi bên kia
xuất hiện đông đảo trên đỉnh đồi rồi chia nhau tràn xuống, lấp ló trồi
sụt dưới mưa bom bão pháo. Pháo địch bắn ta, nếu quá tầm cũng nổ trên
đầu địch; bom đồng minh yểm trợ, lạng lách thế nào không biết, cũng roi
ngọt xớt xuống đầu ta, bêu đầu sứt trán; la hét om sòm tiếng Đức, tiếng
Mỹ, thây kệ mẹ nó, đằng nào cũng phiêu diêu miền cực lạc.
Bắn phá một hồi, hai chiếc Skyhawk rời
vùng và nhanh chóng mất hút cuối chân trời, còn lại hai Cobra đảo lui
đảo tới ạch đùng ạch đùng mấy giây hỏa tiễn trúng ngay vào đám xe tank
cũng chẳng thấy hề hấn gì. Trực thăng bắn cứ bắn, chiến xa địch vẫn tiến
trong đội hình tấn công dưới sự che chở của hỏa lực phòng không. Lần
này họ thay đổi chiến thuật sau khi đã nướng khá nhiều bộ binh trong đợt
xung phong trước, thiết giáp xung kích mở đường, bộ binh lom khom lấp
ló theo sau, không còn hò hét ngậu xị.
Hai chiếc phản lực khác vào vùng lần này
là Phantom F4C, trong khi hỏa lực phòng không cũng đã áp sát chân đồi,
OV10 lảng vảng trên cao bắn trái khói chỉ điểm cho Phantom lao xuống mục
tiêu. Điều không may cho chúng tôi là trong đợt tấn công đầu tiên của
phi tuần này, trái bom lửa vừa phủ lên chiến xa, thì đồng thời chiếc F4C
cũng bị bắn tung đuôi trong khi ngóc đầu lên sau đợt oanh kích. Múi dù
sặc sỡ mở bung trước khi con tàu bốc cháy, lảo đảo đâm vào vách núi nổ
vụn. Thế là tất cả máy bay có mặt trong khu vực, kể cả hai chiếc Skyhawk
mới vào vùng, chưa bắn một phát đạn, bảo vệ cho phi công lâm nạn chờ
trực thăng cấp cứu. Chúng tôi không rõ họ có cứu được đồng đội hay
không, nhưng từ giây phút đó, chiến trường gần như bỏ ngõ cho chiến xa
lồng lên áp đảo.
Xe tăng địch lập tức ào ạt xung phong,
hai…ba…năm, bảy, mười một chiếctất cả cùng lao xuống, bỏ lại bộ binh
phía sau, một chiếc bò ngang chông chênh bên sườn đồi, lãnh nguyên trái
pháo ngang chông chênh bên sườn đồi, lãnh nguyên trái pháo 105 ly trực
xạ hất nhào xuống vực thẳm, chúng vừa bắn vừa tiến và đã chiếm được bãi
trực thăng. Chúng tôi đã thấy khả năng hiệu quả của M72 không nhiều và
không thể bắn ở khoảng cách quá xa nên phải chờ đợi. Tất cả hỏa lực của
chúng tôi chỉ có thể tạm thời trì hoãn tốc độ tiến quân của bộ binh địch
trong trời gian ngắn, khi chiến xa chưa tiếp cận vị trí, tách chúng ra
khỏi sự che chở của chiến xa để dễ đối phó.
Hạ sĩ Nhất Chính và Tiểu đội Khinh binh
lãnh nhiệm vụ đón đánh đợt đầu tiên khi xe tăng vượt qua bãi đáp, tiến
vào yên ngựa hẹp trước khi bám vào căn cứ, đây là địa thế duy nhất có
thể khống chế đội hình địch, bắt buộc chúng phải lần lượt từng chiếc một
theo hàng dọc tiến lên. Chính dẫn theo Bình, Tám và Ngôn, mỗi người một
cây M72 đã ở vị trí chờ kích hỏa, luồn theo giao thông hào, chận ngang
con đường xuống bãi tiếp tế. Chuẩn Úy Nghĩa muốn theo Chính, tôi nhìn
anh ái ngại, thôi Nghĩa à! Cần gì phải vội, anh ở đây chờ thay tôi là
tốt nhất, ai cũng sẽ có phần…Tôi nghĩ thầm nhưng không nói với Nghĩa đã
thấm cái đau xót trước những thân xác đồng đội ngay từ mặt trận đầu tiên
của đời quân ngũ. Mặt Nghĩa hừng hực, mắt long lên như con thú bị
thương. Tâm lý chung của những kẻ đang không còn đường trở lại, và thế
là phải vượt lên phía trước, vượt qua cái hèn bản chất của chính mình,
không còn một khái niệm gì giữa cuộc sống và cái chết, mà có khi chết
còn thanh thản hơn sống.
Chúng tôi hồi hộp nhìn theo hai chiếc
xe, tăng dẫn đầu đang bò theo con dốc hẹp, đám bộ binh đã bị hai cây đại
liên gài chéo cánh sẻ, cùng với tốc đội bắn nhanh của M16 đè đầu, nằm
dán xuống đất lãnh pháo, bò lui bò tới không theo kịp chiến xa, kể như
thiết giáp đã bị mù nên nó cũng thận trọng xử dụng tối đa cây đại bác
dọn đường.
Chính chờ chiếc đi trước bắt đầu ghếch
mũi súng lên đầu dốc, phơi toàn bộ cái ức xám xịt trước mũi súng, khoảng
cách chừng hai mươi mét, anh bình tĩnh bóp cò. Trái đạn đen thui vẽ một
đường thẳng chớp nhoáng lao vào mục tiêu, nổ bùng vào cái mặt ù lỳ dị
hợm. Tưởng như mọi thứ phải tan tành hay bốc cháy trước sức công phá
trực diện của trái hỏa tiễn, thế nhưng chiếc chiến xa chỉ khẽ khựng lại,
như có vẻ giật mình chút đỉnh, rồi lại tiếp tục tiến lên, không cháy,
không nổ, không hề suy suyển. Thấy nguy, Tám bồi thêm một trái trúng
ngay hông pháo tháp khi nó vừa vượt ngang tầm; vẫn khỗng hề hấn gì. Thế
là cả toán đành dạt ra, ném tới tấp lựu đạn vào gầm xe, trong khi chiếc
xe đi sau cũng vừa bám theo được và tác xạ đại liên tới tấp vào vị trí
của Chính, tên xạ thủ 12ly8 chưa bắn được bao nhiêu đã lãnh nguyên một
tràng M16 gục xuống, xác hắn vắt vẻo trên thành xe.
Chúng tôi bất lực để cho chiếc số 1 tiến
thẳng vào căn cứ, chiếc số 2 vừa nối theo thì Chuẩn Úy Nghĩa nhảy phắt
lên, thẩy gọn một trái M26 vào trong lòng pháo tháp. Anh chưa kịp nhảy
xuống thì trúng đạn, gục chồng lên xác địch thủ cùng lúc với tiếng nổ
“bụp” tức tối. Khói từ trong chiếc chiến xa bốc lên. Sao nó vẫn chạy,
vẫn tiến lên phía trước? Nó chạy quờ quạng thêm một đoạn ngắn rồi nổ tan
ra thành hai mảnh, pháo tháp bật ngược ra sau cùng với xác của Nghĩa.
Được chiếc số một mở đường, cả đám xe
tăng cùng ào ạt tiến lên kéo bộ binh đông như kiến cỏ, lúp xa lúp xúp.
Một chiếc trờ tới ủi chiếc bị cháy xuống sườn núi, lấy đường tiến lên,
trong lúc chiếc số 1 đã vào hẳn vị trí trung tâm, bắn phá Bộ Chỉ Huy
Pháo Đội và mon men tìm tới Lữ Đoàn. Chúng tôi cố gắng dùng hết hỏa lực
trì hoãn bước tiến của xe tăng địch, nhưng vô ích. Không có một trái M72
nào có khả năng công phá vỏ thép chiến xa dù các chiến binh đã thừa gan
góc tiếp cận từ mọi hướng, trước, sau, hông, bụng, pháo tháp, bánh
xích. Chúng đóng kín pháo tháp, chỉ xử dụng đại bác và đại liên song
hành càn lên hầm hố, công sự, giao thông hào. Mũi xung kích của địch càn
lên chiếc hào, xé Trung Đội chúng tôi ra làm hai mảnh, với tình thế đó,
bắt buộc phải ra khỏi vị trí cố thủ, đánh cận chiến với…xe tăng.
Đã có bốn chiếc lọt vào căn cứ, trong
lúc bộ binh vẫn còn vất vả phía ngoài, chúng tôi vẫn để hai cây đại
liên, và hai cây khác của Trung Đội 1 vừa mới chuyển qua, bắn ghìm bộ
binh, phần còn lại lao vào tank địch. Chiến trường không chỉ là của
Trung Đội, mà cả Đại Đội đã lồng lên, bu kín các chiến xa, mặc do cho
nòng súng quay tròn gạt xuống. Nhưng làm gì được? Đã bắn hết số M72 để
gãi ngứa chúng. Đã ném không biết bao nhiêu lựu đạn để làm nhột chúng.
Đã chỉa nòng M16 thật gần chỉ bắn vỡ được kính mắt mèo…không lẽ lấy răng
mà cắn? Sức cùng lực tận, hai cây đại liên vừa hết đạn là bộ binh nương
theo khói lửa tràn lên, không biết cơ man nào mà đếm. Chúng tôi vừa
đánh vừa lùi, lùi trên xác đồng đội, lùi trên những đôi mắt đớn đau
tuyệt vọng của những chiến sĩ bị thương không còn người cứu chữa đang
nằm chờ chết.
Cả ngọn đồi đã trở thành biển lửa và máu
khi tất cả hỏa lực của hai bên đều tập trung tác xạ vào một tọa độ duy
nhất, dù mục đích vẫn khác nhau rất xa… “Bắn lên đầu tôi đi! Vĩnh biệt! Bắn lên đầu tôi đi! Vĩnh biệt!”
Trên tần số Đại Đội đã vọng lên lời từ biệt gởi khắp bốn phương. Hai
chiếc phản lực chúi xuống đỉnh đồi, chùm bom đen đủi lao xuống mục tiêu
là một bầy xe tăng bốn năm chiếc, và cả chúng tôi mình trần thân trụi.
Tôi sững sờ đứng như trời trồng nhìn chùm bom lao xuống đầu mình, thật
nhanh, thật nhanh, thật gần và gần hơn nữa, rồi chỉ kịp ôm nón sắt nằm
chúi vào vách đá trong một loạt tiếng nổ vang rền, long trời, đất đá,
sắt thép, mảnh bom, mảnh thịt người, rơi lào rào, lịch bịch.
Đồng minh oanh tạc thật chính xác! Đỉnh
đồi nát bấy những mảnh vỡ của công sự, những chiến sĩ cuối cùng của pháo
đội B3 cùng với Đại Úy Nguyễn Văn Đương, Pháo Đội trưởng đang kiên
cường trong những cố gắng gan góc, tác xạ trực diện vào xe tăng địch
đang loay hoay, lúng túng trước địa hình lồi lõm, hầm hố mà khoảng cách
chỉ là năm, mười mét. Kể từ lúc đó, chiến địa mất hẳn liên lạc với Pháo
Đội B3. Không quân đồng minh đã đưa những con người có khả năng thay đổi
tình thế đó vào quân sử. Riêng xe tăng đối phương lại nằm ngoài tầm ảnh
hưởng của đợt bom công phá, dù khoảng cách cũng chỉ có 5, 10 mét. Họ đã
có đồng minh mới.
Thế nhưng, trận chiến vẫn chưa phải đã
kết thúc, dù phần thắng bại đã thể hiện rõ rệt. Máy bay vào vùng trở lại
đem chúng tôi về cõi hồi sinh, dù sao đợt oanh kích lầm lẫn tai hại đó
đã giúp lực lượng địch nống thêm một bước nữa, đẩy quân ta xuống sườn
đồi, chúng tôi vẫn nghĩ việc oanh tạc sai mục tiêu, bắn lầm vào quân bạn
là việc rất bình thường giữa chiến trường, nên vẫn còn hy vọng vào
phương tiện yểm trợ hữu hiệu này.
Ba phần tư ngọn đồi đã nằm trong tay
địch, chúng tôi chỉ còn giữ được một phần Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, Lữ Đoàn,
nhưng không còn ai trong những vị trí đó. Tất cả đã ra ngoài cùng sát
vai chiến đấu, và hệ thống chỉ huy liên lạc vẫn duy trì đầy đủ cho đến
cấp trung đội, dù trên thực tế, một trung đội còn không quá 10 người còn
khả năng chiến đấu. Sau khi tái phối trí lực lượng, chúng tôi được lệnh
trực tiếp của tiểu đoàn, tổ chức một cuộc phản kích toàn bộ trên trận
tuyến, cố gắng chiếm lại các vị trí đã mất với hy vọng không quân sẽ yểm
trợ hữu hiệu để giữ vững căn cứ.
Khi đã qua phần mở màn đầy kịch tính của
lo âu, sợ hãi nơi con người thèm sống, khi mà khói súng đã quyện vằn
vện với mồ hôi trên mặt, khi những vết máu đồng đội đã đông cứng trên
hai tay người lính chiến, thì khái niệm sống, chết bỗng trở thành vô
nghĩa, nhất là trong hoàn cảnh không còn có thể chọn lựa như ở đây, tất
cả chỉ còn là định mệnh. Vì thế, tất cả đã hăm hở lao lên trong một cố
gắng tuyệt vọng, lại bắn, lại thụt M72, lại ném lựu đạn, lại leo tràn
lên xe tăng địch, mà bây giờ đã có bộ binh phối chiến, mặt đối mặt với
lưỡi lê báng súng, lăn xả vào nhau bắn giết, đâm chém, lại loay hoay
không biết phải làm gì với khối sắt di động đó, lại bị thương, lại ngã
gục giữa bom bầy pháo lũ, pháo nổ chụp, pháo công phá, pháo nổ chậm,
trên đầu chụp xuống, dưới đất nổ hất tung lên, phạt ngang lưng, chém
ngang cổ. Bom, pháo cả hai bên cùng bắn vào một chỗ, lính cả hai phía
cùng chia nhau lãnh đạn, đạn bắn thủng xuyên màng tang trổ ra sau ót, óc
vỡ tung ra với máu, vài cái nón sắt lăn lông lốc trên những đôi dép râu
tuột quai, nhầy nhụa trong một dòng nước đỏ ối đang khởi thủy vết chảy
ngoằn ngèo của một dòng sông máu.
Xác chết từ hai phía thân ái ôm chầm lấy
nhau rồi đổ ụp xuống nằm cạnh nhau hiền hòa như chưa hề quen biết làm
ngọn núi chợt cao lên muôn ngàn lời ai oán.
Đợt phản kích không đủ sức mạnh để đạt
hiệu quả mong muốn, và từ dưới chân đồi tràn lên một đợt sóng biển người
và chiến xa khác. Địch tung toàn bộ lực lượng vào đợt tấn công quyết
định, trong khi phía chúng tôi đã sức cùng lực tận, đành chấp nhận rút
lui để hạn chế thương vong.
Ngôi sao của cuộc tử thủ đến giờ phút
cuối cùng là trưởng ban ba Tiểu đoàn, Thiếu tá Lê Hồng (danh hiệu truyền
tin là Hồng Vân) với sự bình tĩnh hiếm có và khả năng Anh ngữ lưu loát
đã lần lượt củng cố lại đội hình đơn vị, ngăn không để sự hỗn loạn xảy
ra; ông thực sự là cấp chỉ huy cao nhất trận địa, dù vẫn còn Tiểu đoàn
trưởng, Tiểu đoàn Phó và các cấp cao hơn của Lữ Đoàn. Với bốn, năm chiếc
máy cần liên lạc, ông trực tiếp chỉ huy chúng tôi bố trí lại trận
chiến, trực tiếp hướng dẫn các phi tuần phản lực Mỹ oanh tạc vào trận
địa, và điều chỉnh pháo binh bắn cản. Tất cả đó đã giúp cho đơn vị rút
khỏi căn cứ trong vòng trật tự, bảo tồn được phần lực lượng còn lại.
Trong hoàn cảnh bi thảm như thế, mà
triệt thoái được như một cuộc lui quân bình thường, quả không phải là
điều dễ kiến tạo, nếu tự thân đơn vị không có truyền thống kỷ luật, và
nhất là người chỉ huy thiếu quyết đoán. Viết vài dòng để tỏ lòng khâm
phục ông, tôi vẫn không cảm thấy có điều gì hổ thẹn, dù không biết ông
còn sống hay đã chết, và dù sau này giữa ông và tôi có nhiều khúc mắc,
nhất là sau những lầm lỗi đời thường của tôi trong những ngày đóng quân ở
Thuận An, tôi đã bị chính ông đì sát ván.
Giá trị đích thực của mỗi một con người
đều được thể hiện rõ rệt trong những gian nguy thử thách. Khả năng chỉ
huy tại trận tuyến của ông, đã đánh bạt hết bao nhiêu ý nghĩ bất phục
của giàn sĩ quan đại đội trưởng, đa số xuất thân từ hai quân trường lớn
của Quốc gia, nay lại phải dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan đồng cấp,
lại khởi đầu binh nghiệp bằng quân hàm thấp nhất của quân đội: Binh nhì.
Dù tất cả cấp bậc của ông đều đã được tái đào tạo cùng với cấp bằng văn
hóa tương đương mà ông đã tự học bằng những khoảng thời gian ngắn ngủi
giữa hai cuộc hành quân.
Đơn vị rút xuống khe núi, trung đội tôi
chỉ còn lại tám người, có Thượng sĩ Đàng và Trung sĩ Yến. Hạ sĩ Nhất
Chính đã tử trận lúc một chiếc chiến xa nghiến qua người sau khi anh đã
bị thương trong đợt phản kích. Tiểu đội khinh binh chỉ còn lại Thông,
Ngôn và Tám, tôi lại được xuống cấp làm tổ trưởng khinh binh, dẫn hai
ông tổ phó mở đường rút cho đơn vị, mang theo được rất ít thương binh
nhẹ, trong đó có Bé, trung đội trưởng trung đội một.
Cái đau bại trận thấm lên từng khuôn mặt
mệt mỏi, chán chường, không đủ can đảm nhìn thẳng vào mắt nhau, dù chỉ
để đôi điều chia sẻ. Tôi bỗng hổ thẹn vô cùng trước giọt nước mắt âm
thầm lau vội của Thượng sĩ Đàng; ông đã yêu những người lính trong trung
đội bằng tình yêu thương ruột thịt, nên cũng đau gấp vạn lần từ thiếu
vắng, tang hoang, buồn tủi trước cái nhìn trân trân vô hồn của Thông và
Tám. Họ đang nghĩ đến số đồng đội bị thương đang chờ chết trong tay
địch, điều mà từ trước tới nay, chưa ai một lần nghĩ tới.
Rừng chiều bổng đổ mưa. Tiếng sấm gào
cùng với tiếng pháo tàn trận, dội vào vách núi, vỡ vụn ra những âm thanh
buồn bã của hồi chuông tử biệt. Mưa tuôn rì rào trên lá, rì rào lời
kinh chiêu hồn vang vọng. Trung đội lầm lủi tiến về phía trước, theo sự
hướng dẫn của đại đội 31 còn nguyên vẹn, đang tiến về căn cứ, và chờ
chúng tôi ở hai cây số đông đông bắc. Trong khi ở một hướng khác, đại
đội 34 cũng đang đón phần còn lại của đại đội 32, trước khi tập hợp tại
một vị trí định sẵn. Chờ lệnh mới.
Buổi chiều tắt dần theo những đôi mắt
ngoái nhìn cứ điểm đang ngập chìm trong khói lửa. Đêm, đêm rủ xuống vách
núi chông chênh, cao thấp những bước chân đau buồn sống sót và giữa
rừng núi âm u chợt nghe tiếng ai thở dài đâm vào vết đá, tiếng thở dài
trôi xuôi hàng quân đang chênh vênh bên bờ vực thẳm, cắn răng nuốt nổi
uất hận, trung đội vẫn ghìm chắc tay súng, đoạn hậu cho toàn đơn vị rút
qua.
Chúng tôi nhận lệnh trực tiếp từ tiểu
đoàn, tổ chức chốt chặn, để tất cả thương binh nặng, nhẹ mang theo được,
sẽ cùng đại đội 31 và bộ chỉ huy tiểu đoàn rút trước qua triền núi bên
kia, sau đó, sẽ tìm gặp đại đội 34 đang cùng với một bộ phận khác của
tiểu đoàn di chuyển cách đó chừng bốn cây số đông đông bắc, móc nối, dẫn
đường cho hai cánh quân gặp nhau.
Nhiệm vụ nghe có vẻ nhẹ nhàng, nhưng quả
thực, khi đồng đội cuối cùng khuất sau hẽm núi, chúng tôi cảm thấy vô
cùng cô đơn với sáu người còn lại. Và trên đồi 31 vẫn ầm ì tiếng pháo
truy kích của xe tăng địch bắn vu vơ vào vách núi.
Chắc chắn khi leo lên được đỉnh đồi 31,
địch đã gánh chịu một sự tổn thất không thể bù đắp nổi về quân số, nên
họ đã không còn khả năng tổ chức truy kích, vì thế, “trung đội sáu
người” bớt được gánh nặng nghênh cản để lần mò theo tiếng súng hướng
dẫn, tìm về đại đội bạn. Cho đến quá nửa đêm thì gặp nhau, và chỉ kịp
siết chặt nắm tay chào hỏi, gấp rút quay theo đường cũ, dẫn theo đại đội
34, về gặp lại tiểu đoàn trước khi trời sáng. Thời gian không còn thuộc
về chúng tôi.
Đoàn quân lần dò trong bóng tối của
trùng điệp núi rừng, bám vai nhau tuôn dần xuống dốc núi dựng đứng, cố
gắng tiến thật nhanh về điểm hẹn, nơi đó, một đơn vị bạn đang trên đường
tiếp ứng. Đến gần sáng, chúng tôi gặp được quân bạn đang hướng tới đồi
31 cùng với chiến xa, để rồi sau đó, được trực thăng bốc về Khe sanh,
tái bổ sung và trang bị lại đơn vị.
Người lính khinh binh, khi thắng trận,
vinh quang trải xuống theo hệ thống quân giai, thưởng nầy thưởng kia huy
chương thăng thưởng, tuyên dương tài điều binh khiển tướng, hạ sĩ như
Thông giỏi lắm lãnh sao bạc đồng, với dăm ba ngày phép. Khi thất thế,
nếu may mắn sống sót trở về, lại gánh hết trách nhiệm một kẻ bất tài,
làm như việc thất thủ cứ điểm chỉ là do sự yếu kém của người lính chiến
đấu. Các quan to súng ngắn, các nhà tham mưu, kế hoạch, hoàn toàn vô
can, phủi bỏ trách nhiệm một cách thản nhiên khi những đồng đội của
Thông đã nằm lại trên chiến địa. Thế nhưng họ chẳng bao giờ phân vân
trên những ti tiện đời thường, để vẫn hăm hở cắp súng lao về phía trước,
quên cả an nguy bản thân để thi hành mệnh lệnh.
Giai đoạn một của cuộc hành quân Lam Sơn
719 kết thúc cùng với sự thất thủ liên tiếp các căn cứ hỏa lực 31, 30, A
Lưới. Đáng lẽ vị “Tổng Tư Lệnh quân đội” và vị “Tư lệnh tài ba” của
Quân Đoàn I, cũng là tư lệnh cuộc hành quân sớm nhận chân được thất bại,
để dừng lại các quyết định ngoài khả năng. Trái lại, xương máu các đơn
vị còn lại, là trụ cột chống đở Miền Nam sau nầy, lại được họ ném vung
vãi, vô tội vạ, vào cối xay thịt mà đối phương và đồng minh đã dàn sẵn,
từ Lao Bảo, lên tận Tchepone!
Máu lính tế thần đã dâng cao hơn hoạn
lộ, để cho bước chân của Tổng thống Nixon trên Vạn lý Trường thành bớt
gập ghềnh khúc khuỷu.
Hết.
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”Nguồn: Bài do tác giả gởi, đã viết từ 1998 trong cuốn “Hạ sĩ Khinh binh”. DCVOnline minh hoạ và chú thích.
“Khoảng 4 giờ hay 4 giờ 05 thì Đương nói: ‘11 ơi, em không liên lạc với 11 nữa, vĩnh biệt 11!’ và rồi tôi không nghe gì nữa.
Tôi nghĩ lúc đó
Đương đã vĩnh biệt tất cả đồng đội. Trước khi chết, Đương cho tôi biết,
anh chỉ còn có hai viên đạn cuối cùng trên nòng súng mà thôi! Và đó là
cái chết của Nguyễn văn Đương trên mặt trận Hạ Lào. Sau đó khoảng 5
phút, Đại Tá NguyễnVăn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 gọi cho tôi nói: ‘11 làm ơn bắn ngay trên đầu tao đi.’
Trên máy bay tôi cho lệnh tất cả các pháo đội sử dụng đạn nổ CVT, dù
sao tôi cũng sợ bắn đạn thường rơi vào hầm hố của quân mình, nên tôi
dùng đạn CVT.
Khai hỏa vào khoảng 4
giờ 15, thì tất cả 4 pháo đội đồng khai hỏa bắn vào căn cứ 31 và bắn
giết cả bạn lẫn thù, lần đầu tiên trong đời pháo thủ của tôi! Khi tôi
vừa ra lệnh bắn, thì Đại Tá Lưỡng và tôi cùng cả phi hành đoàn đều bật
khóc. Đó là cái chết của Đại Úy Nguyễn Văn Đương và Đại Tá Lữ Đoàn
Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù tại mặt trận Hạ Lào.”
Trích, Trung tá Bùi Đức Lạc, “Chuyện Một Thời Khói Lửa Chiến Chinh!”